TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN S, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 05/2018/HSST NGÀY 06/02/2018 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 06 tháng 02 năm 2018, tại trụ sở Uỷ ban nhân dân phường A,quận S T phố Đ. Tòa án nhân dân quận S Tphố Đ đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 03/2018/HSST ngày 09 tháng 01 năm 2018 đối với các bị cáo:
1. Hoàng Quốc H. Giới tính: Nam. Tên gọi khác: Không. Sinh năm: 1990 tại: TP Đ. Nơi đăng ký HKTT: Tổ 18B, phường T, quận H, TP Đ. Chỗ ở: K44/7 Hàn Mặc Tử, phường T, quận H, TP Đ. Trình độ học vấn: 10/12. Nghề nghiệp: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Con ông: Hoàng Văn H (SN 1954); con bà: Nguyễn Thị X (Chết). Gia đình có 04 anh, em; bị can là con thứ ba. Vợ: Lại Thị Oanh K (SN 1989). Trú tại: Tổ 18, phường T, quận C, TP.Đ.Tiền án: Không. Tiền sự: Năm 2015, bị TAND quận H quyết định áp dụng xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 15 tháng do sử dụng trái phép chất ma túy. Nhân thân: Ngày 25/9/2006, bị TAND TP Đ xử phạt 3 năm 6 tháng tù về tội Cướp tài sản. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 28/10/2008. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 13/08/2017. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Hòa Sơn. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. Họ tên: Hồ Văn M. Giới tính: Nam. Tên gọi khác: Không. Sinh năm: 1992 tại: T phố Đ. Nơi đăng ký HKTT: K201/8 Phan Châu Trinh, phường P, quận H, TP Đ. Chỗ ở: Tổ 15, phường T, quận T, TP Đ.Trình độ học vấn: 9/12. Nghề nghiệp: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Tôn giáo: Không. Con ông: Hồ Văn H (SN 1964); con bà: Phan Thị Kim L (SN 1969). Gia đình có 03 anh, em; bị can là con thứ hai. Tiền án: Không. Tiền sự: Tháng 8/2016, bị TAND quận C quyết định áp dụng xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 12 tháng do sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 13/08/2017, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Hòa Sơn. Bị cáo có mặt tại phiên tòa
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Trần Thị V, sinh năm 1990; trú tại: Thôn Thanh Ly 1, xã Bình Nguyên, huyện T, tỉnh Q. Vắng mặt
2. Ông Lê Kim T, sinh năm 1985. Nơi ĐKNKTT: Tổ 82, phường H, quận H, T phố Đ. Trú tại: H81/12/K408 Trưng Nữ Vương, phường H, quận H, T phố Đ. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 17 giờ 45 phút ngày 13/8/2017, tại trước quán cà phê Phúc Viên số 36 Phạm Văn Đồng, phường A, quận S, Đội CSĐTTP về ma túy Công an quận S phát hiện Hoàng Quốc H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 92H1-198.73 chở theo đối tượng Hồ Văn M có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra và phát hiện trong túi áo khoác của H đang mặc có 01 gói ni lông kích thước (4x6)cm, chứa chất rắn tinh thể màu trắng H khai nhận là ma túy đá.
*Tang vật tạm giữ:
* Của Hoàng Quốc H:
- 01 gói ni lông kích thước (4x6) cm, chứa chất rắn tinh thể màu trắng
- 01 điện thoại Nokia, màu đen số điện thoại 0905984563, số imel: 354874081090614.
- Xe mô tô biển kiểm soát 92H1-198.73.
- 01 cân tiểu ly màu xám.
* Của Hồ Văn M: 01 điện thoại di động màu đen số điện thoại 0932577352, số imel: 301014132895084.
Theo kết luận số 497 ngày 18/8/2017 của Phòng kỷ thuật hình sự Công an TP Đ thì:
Mẫu tinh thể ký hiệu H giám định là ma túy, loại Methamphetamin trọng lượng mẫu H: 3,674 gam.
Qua điều tra xác định: Vào khoảng 15 giờ ngày ngày 13/8/2017, H (không rõ lai lịch) nhờ Hoàng Quốc H mua giúp cho Huy C (còn gọi là Lùn) là bạn của H 4.500.000 đồng ma túy đá. H đồng ý nên H liên lạc với đối tượng tên Đạt L (chưa xác định nhân thân, lai lịch) để mua ma túy. Đạt L đồng ý và hẹn H đến trước nhà thờ Nhượng Nghĩa (tại: Đường Trần Hưng Đạo, Quận S) để giao dịch mua bán ma túy. Sau đó, Huy C đến gặp H rồi cùng H đi đến điểm hẹn gặp Đạt L. Khi gặp Đạt L, Huy C đưa tiền cho Đạt L và Đạt L đưa gói ma túy cho Huy C rồi Huy C chở H về nhà H.
Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, Huy C điện thoại cho H nói ma túy thiếu khoảng 1 gam và hẹn H đến quán nước mía trên đường 3/2, Quận H, TP Đ để lấy gói ma túy mang đi gặp Đạt L đổi lại cho H. Khi H đến điểm hẹn thì gặp Huy C và Hồ Văn M. Tại đây, Huy C đưa cho M 01 cân điện tử và 01 gói ma túy đá rồi bảo H và M mang đi đổi lại. H điện thoại cho Đạt L và Đạt L hẹn H đến trước quán cà phê Lộc Viên trên đường Phạm Văn Đồng, Quận S để đổi ma túy lại. Trước khi đi, M đưa cân điện tử và gói ma túy choH cất giữ. Sau đó, M điều khiển xe mô tô BKS: 92H1-198.73 chở H đến điểm hẹn để gặp Đạt L thì bị Đội CSĐTTP về ma túy Công an Quận S kiểm tra và phát hiện thu giữ cùng tang vật.
Quá trình điều tra, Hồ Văn M khai nhận từ đầu tháng 8/2017 và đến thời điểm bị bắt đã 5 lần mua giúp ma túy cho Lê Kim T với số tiền mỗi lần mua từ 200.000 đồng đến 500.000 đồng. Với cách thức: Khi T điện thoại nhờ mua ma túy thì M hẹn T đường Yên Khê hoặc đường Bế Văn Đàn thuộc quận Thanh Khê rồi T đưa tiền cho M. Sau đó, M điện thoại cho người tên T (ở Thọ Quang) mua ma túy rồi về đưa ma túy cho Lê Kim T và T cho M ma túy sử dụng. Qua xác minh, Lê Kim T hiện không có mặt tại nơi cư trú.
Tại bản cáo trạng số 01/CT-VKS ngày 09/01/2018 của VKSND Quận S, T phố Đ đã truy tố bị cáo Hoàng Quốc H và Hồ Văn M về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận S vẫn giữ nguyên nội dung bản cáo trạng và đề nghị HĐXX:
Áp dụng khoản 1 Điều 194 năm 1999; điểm s khoản 1, Điều 51; Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Hoàng Quốc H mức án từ 30 đến 36 tháng tù giam.
Áp dụng khoản 1 Điều 194 năm 1999; điểm s khoản 1, Điều 51; Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Hồ Văn M mức án từ 24 đến 30 tháng tù giam.
+ Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:
- 01 bì niêm phong hoàn trả sau khi giám định số: 72/GĐ-MT ngày 28/12/2016 của phòng Kỹ thuật Hình sự CA TP Đ, mẫu ký hiệu D:0,093 và mẫu D1: 4,698 gam loại Methamphetamine là trọng lượng còn lại sau khi giám định.
- 01 cân tiểu ly màu xám.
+ Sung công quỹ nhà nước:
- 01 điện thoại Nokia,màu đen có số điện thoại 0905984563, số imel: 354874081090614;
- Giao cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận S 01 điện thoại di động màu đen có số điện thoại 0932577352, số imel: 30101413289508401 tạm giữ để tiếp tục điều tra làm rõ xử lý theo quy định của pháp luật.
Đối với xe mô tô BKS 92H1-198.73, M khai mượn của một người tên T (không rõ nhân thân, lai lịch) nhưng qua xác minh thì người đứng tên đăng ký là chị Trần Thị V (Trú tại: Thôn Thanh Ly 1, xã Bình Nguyên, huyện T, tỉnh Q). Tháng 8 năm 2017, chị V cho Nguyễn Lạc N (quan hệ họ hàng và cùng nơi cư trú với chị V , N hiện không có mặt tại nơi cư trú) mượn nhưng chưa trả lại, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận S đã xử lý trao trả xe mô tô BKS 92H1-198.73 cho chị Trần Thị V nên không đề cập xử lý.
Đối với các đối tượng: H, Huy C (người nhờ H mua và mang ma túy đi đổi lại), Đạt L (người bán ma túy cho H) hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch; Lê Kim T (người nhờ M mua giúp ma túy) hiện không có mặt tại nơi cư trú nên tách ra tiếp tục xác minh, xử lý sau là phù hợp
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Hồ Văn M và Hoàng Quốc H, Công an Quận S đã ra Quyết định xử phạt hành chính là có cơ sở.
Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với phần luận tội của Kiểm sát viên.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nên không có ý kiến của họ.
Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo đã nhận thức rõ hành vi phạm tội của
mình, có thái độ ăn năn hối cải và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận S, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận S, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay, các bị cáo Hoàng Quốc H, Hồ Văn M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo, xét lời khai của bị cáo phù với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. HĐXX thấy có đủ cơ sở để khẳng định: Khoảng 17 giờ ngày 13/8/2017, Hoàng Quốc H và Hồ Văn M mang 3,674 gam ma túy đến trước quán cà phê Lộc Viên trên đường Phạm Văn Đồng (Thuộc: Phường A, Quận S) gặp Đạt L (không rõ nhân thân, lai lịch) để đổi ma túy cho Huy Cnhưng chưa kịp đổi thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận S phát hiện bắt giữ cùng tang vật.
Theo kết luận số 497 ngày 18/8/2017 của Phòng kỷ thuật hình sự Công an TP Đ thì: Mẫu tinh thể ký hiệu H giám định là ma túy, loại Methamphetamin trọng lượng mẫu
H: 3,674 gam.
Hành vi phạm tội của các bị cáo Hoàng Quốc H và Hồ Văn M đã đủ yếu tố cấu T tội “Vận Chuyển trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999. Như vậy, bản cáo trạng số 01/CT-VKS ngày 09 tháng 01 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân Quận S, Tphố Đ đã truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Ma túy hiện nay là vấn đề nhức nhối của xã hội, không chỉ làm suy kiệt trí tuệ, sức khỏe, nòi giống mà còn khiến nhiều gia đình rơi vào hoàn cảnh khánh kiệt, bần cùng, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Có thể nói, ma túy là loại tệ nạn đáng quan tâm nhất hiện nay, vì nó lôi kéo một số thanh niên sa vào con đường nghiện ngập ngày một tăng. Bị cáo Hoàng Quốc H, Hồ Văn M nhận thức việc vận chuyển trái phép ma túy là trái pháp luật, nhưng các bị cáo vẫn thực hiện một cách táo bạo, giữa ban ngày. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nứơc đối với chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội nên cần phải xử lý nghiêm.
Xét vai trò, mức độ tham gia và nhân thân của từng bị cáo thì thấy:
Bị cáo Hoàng Quốc H là người nhận lời đi mua ma túy cũng là người đi đổi ma túy cho Huy Cận, đồng thời cũng là người trực tiếp cầm 01 gói ma túy và 01 cân điện tử. Ngoài ra bị cáo còn có nhân thân xấu: Tiền sự: Năm 2015, bị TAND Quận H quyết định áp dụng xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 15 tháng do sử dụng trái phép chất ma túy. Ngày 25/9/2006, bị TAND TP Đ xử phạt 3 năm 6 tháng tù về tội Cướp tài sản. Chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 28/10/2008 nên bị cáo phải chịu mức hình phạt cao hơn bị cáo Hồ Văn M là phù hợp. Đối với Hồ Văn M sau khi nhận lời đi đổi ma túy cho Huy Cận, M điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 92H1-198.73 chở theo H đến địa điểm đã hẹn để đổi ma túy. Bị cáo có một tiền sự: Tháng 8/2016, bị TAND quận C quyết định áp dụng xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 12 tháng do sử dụng trái phép chất ma túy nêm HĐXX sẽ áp dụng một mức án phù hợp cho bị cáo.
Tuy nhiên HĐXX cũng xét thấy, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo T khẩn khai báo, có hoàn cảnh gia đình khó khăn, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm p, khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 để giảm nhẹ cho các bị cáo khi lượng hình. HĐXX xét thấy, mức hình phạt và việc đề nghị cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo các bị cáo trở T người có ích cho xã hội mà vị diện Viện kiểm sát nhân dân Quận S, Tphố Đà Nẵng đưa ra là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo.
Đối với các đối tượng: H, Huy C (người nhờ H mua và mang ma túy đi đổi lại), Đạt L (người bán ma túy cho H) hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch; Lê Kim T (người nhờ M mua giúp ma túy) hiện không có mặt tại nơi cư trú nên tách ra tiếp tục xác minh, xử lý sau là phù hợp
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Hồ Văn M và Hoàng Quốc H, Công an Quận S đã ra Quyết định xử phạt hành chính là có cơ sở.
Đối với xe mô tô BKS 92H1-198.73, M khai mượn của một người tên Tuấn (không rõ nhân thân, lai lịch) nhưng qua xác minh thì người đứng tên đăng ký là chị Trần Thị Vân (Trú tại: Thôn Thanh Ly 1, xã B, huyện T, tỉnh Q). Tháng 8 năm 2017, chị V cho Nguyễn Lạc N (quan hệ họ hàng và cùng nơi cư trú với chị V, N hiện không có mặt tại nơi cư trú) mượn nhưng chưa trả lại, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận S đã xử lý trao trả xe mô tô BKS 92H1-198.73 cho chị Trần Thị Vân nên không đề cập xử lý.
* Về vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:
+ Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:
- 01 bì niêm phong hoàn trả sau khi giám định số: 72/GĐ-MT ngày 28/12/2016 của phòng Kỹ thuật Hình sự CA TP Đ, mẫu ký hiệu D:0,093 và mẫu D1: 4,698 gam loại Methamphetamine là trọng lượng còn lại sau khi giám định.
- 01 cân tiểu ly màu xám.
+ Sung công quỹ nhà nước:
- 01 điện thoại Nokia,màu đen số điện thoại 0905984563, số imel: 354874081090614;
- Giao cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận S 01 điện thoại di động màu đen có số điện thoại 0932577352, số imel: 30101413289508401 tạm giữ để tiếp tục điều tra làm rõ xử lý theo quy định của pháp luật.
(Theo biển bản giao nhận vật chứng ngày 05.02.2018.) tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận S.
* Về án phí: Bị cáo Hoàng Quốc H, Hồ Văn M mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1/ Tuyên bố: Hoàng Quốc H, Hồ Văn M phạm tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.
Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2, Điều 46 BLHS năm 1999.
Xử phạt: Hoàng Quốc H 36 (ba mươi sáu) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 13/08/2017.
Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2, Điều 46 BLHS năm 1999.
Xử phạt: Hồ Văn M 30 (ba mươi) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm
giam, ngày 13/8/2017.
2/ Về án phí: Bị cáo Hoàng Quốc H, Hồ Văn M mỗi bị cáo phải nộp 200.000đồng, án phí hình sợ sơ thẩm.
3/ Về xử lý vật chứng:
- Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự năm 1999, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:
+ Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:
- 01 bì niêm phong hoàn trả sau khi giám định số: 72/GĐ-MT ngày 28/12/2016 của phòng Kỹ thuật Hình sự CA TP Đ, mẫu ký hiệu D:0,093 và mẫu D1: 4,698 gam loại Methamphetamine là trọng lượng còn lại sau khi giám định.
- 01 cân tiểu ly màu xám.
+ Sung công quỹ nhà nước:
- 01 điện thoại Nokia,màu đen số điện thoại 0905984563, số imel: 354874081090614;
- Giao cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận S 01 điện thoại di động màu đen có số điện thoại 0932577352, số imel: 30101413289508401 tạm giữ để tiếp tục điều tra làm rõ xử lý theo quy định của pháp luật.
(Theo biển bản giao nhận vật chứng ngày 05.02.2018.) tại Chi cục Thi hành án dân sự
Quận S).
4/ Quyền kháng cáo:
Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm hôm nay, ngày 06/02/2018. Riêng người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại hiên tòa hôm nay có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưởng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn