Bản án 267/2019/HS-ST ngày 24/10/2019 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 267/2019/HS-ST NGÀY 24/10/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 24 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 258/2019/TLST-HS ngày 03 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 268/2019/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Trần Vũ L, sinh ngày 25/01/2000 tại tỉnh Kiên Giang; nơi cư trú: Ấp 9B, xã T, huyện A, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Quốc B, sinh năm 1969 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1975; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 11/6/2019 cho đến nay. Có mặt.

2. Phạm Thị N Y, sinh năm 1995 tại tỉnh Cà Mau; nơi cư trú: Ấp 3, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Hoàng O (đã chết) và bà Trần Thu B, sinh năm 1954; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 11/6/2019 cho đến nay. Có mặt.

- Bị hại:

1. Ông Nguyễn Thanh H, sinh năm 1991; trú tại: Thôn 5, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Hà Tĩnh. Có mặt.

1 2. ÔngTrương Văn D, sinh ngày 10/6/2001; trú tại: Thôn Y, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Đặng Văn Q, sinh năm 1990; trú tại: Thôn N, xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh. Vắng mặt.

- Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn T; ông Phạm Văn D; ông Phạm Văn Đ; ông Nguyễn Quốc T; bà Hoàng Thị Mai T; bà Đỗ Thị Kim N; ông Đoàn Quang Đ; ông Thái Văn N; bà Võ Thị Ngọc Q. Đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 21 giờ ngày 10/6/2019, Trần Vũ L và Phạm Thị N Y đi ăn ở quán Nướng đá tại đường DA10, khu dân cư Việt Sing, khu phố B, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương cùng với các bạn là Hoàng Thị Mai T, Đỗ Thị Kim N, Thái Văn N, Đoàn Quang Đ và hai người bạn tên A, P (chưa xác định được lai lịch). Lúc này, trong quán cũng có Trương Văn D đang tổ chức sinh nhật, trong số khách đến dự sinh nhật có Nguyễn Thanh H và khoảng 15 thanh niên nam, nữ. Trong quá trình ăn uống, Y và N đi vào nhà vệ sinh thì gặp Trương Văn D đứng chắn ngang tại phía trước cửa ra vào nhà vệ sinh dùng lời lẽ trêu ghẹo Y và N, Y luồn qua tay D bỏ đi trước, còn N đi sau thì bị D tiếp tục trêu ghẹo, Y nhìn thấy nên can ngăn rồi cả hai về bàn ăn. Y và N kể lại sự việc trên cho mọi người trong bàn cùng nghe, một lúc sau cả nhóm tính tiền ra về. Trong lúc đi ra thì Y và một số người nữ đi ngang qua bàn ăn củaTrương Văn D. Y và mấy người nữ tiếp tục chỉ về phía D, ý nói là người này đã có những lời nói, cử chỉ trêu mấy người nữ trong nhóm của Y khi đi vệ sinh. Thời điểm này, Trần Vũ L vừa ra lấy xe mô tô biển số 69D1-289.39 đứng chờ Y trước cổng quán, L nghĩ lại chuyện Y là bạn gái của L bị trêu ghẹo nên L mở cốp xe lấy 01 con dao Thái lan (cán nhựa màu vàng) dấu vào phía trong tay áo bên phải rồi quay vào bàn ăn của nhómTrương Văn D. Do không biết mặt người nào đã trêu ghẹo Y nên khi thấy Nguyễn Thanh H đang đứng tại khu vực bàn ăn thì L dùng tay phải đâm 01 nhát vào phía sau lưng ông H . Lúc này, Y đi phía sau L thấy L đâm nhầm người nên Y dùng tay phải chỉ về hướngTrương Văn D rồi nói “thằng này nè”. Nghe vậy, L định xông vào đánhTrương Văn D thì Duy dùng ghế gỗ trong quán ném lại L, Y dùng tay giữ ghế lại, L nhào tới dùng dao đâm một nhát vào vùng ngực của D rồi bỏ chạy ra ngoài. D bị đâm té ngã về phía sau, Y cầm ghế gỗ ném vào người D nhưng D né được và dùng chân đạp vào mông của Y một cái rồi đuổi theoY đến khu vực phía trước cổng quán thì D tiếp tục dùng tay, chân đánh vào đầu, chân, hông của Y. Y tiếp tục bỏ chạy và được bạn chở đi khỏi quán. Sau khi đâm D, L bỏ chạy về hướng khu công nghiệp Vsip vứt bỏ con dao gần chốt bảo vệ và thuê xe chở về phòng trọ.Trương Văn D và Nguyễn Thanh H được người thân đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Dương.

Theo Kết luận Giám định Pháp y số 259/2019/GĐPY và 261/2019/GĐPY ngày 20/6/2019 của Trung tâm Pháp Y tỉnh Bình Dương kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể củaTrương Văn D là 08% và Nguyễn Thanh H là 09%.

Bản Cáo trạng số 272/CT-VKS-TA ngày 03/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Phạm Thị N Y về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), truy tố bị cáo Trần Vũ L về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

Vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An thay đổi một phần quyết định truy tố đối với bị cáo Trần Vũ L về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) chứ không áp dụng điểm c khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) như Cáo trạng và đề nghị:

Về trách nhiệm hình sự:

Áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 134, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo L từ 18 đến 24 tháng tù.

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Y từ 10 đến 12 tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện của các bị cáo liên đới bồi thường cho ông H số tiền 30.000.000 đồng, cho ông D số tiền 15.392.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy: 01 con dao Thái Lan. Hoàn trả cho bị cáo Y xe mô tô biển số 69D1-28939. Hoàn trả cho ôngĐặng Văn Q 01 ghế bằng khung sắt có lót gỗ.

Các bị hại yêu cầu các bị cáo có trách nhiệm bồi thường như sau: H yêu cầu số tiền 30.000.000 đồng, D yêu cầu số tiền 15.392.000 đồng và đề nghị xử phạt các bị cáo theo quy định, không có ý kiến tranh luận gì.

Các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thống nhất tội danh, khung hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng, tự nguyện nhận có trách nhiệm bồi thường cho các bị hại, không có ý kiến tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo Trần Vũ L và Phạm Thị N Y tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Điều tra, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án như biên bản khám nghiệm, bản ảnh hiện trường, vật chứng thu giữ, biên bản trích xuất dữ liệu hình ảnh, kết luận giám định, lời khai của bị hại, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, của người làm chứng, có đủ cơ sở kết luận:

Khong 23 giờ 20 phút ngày 10/6/2019, tại quán Nướng đá, đường DA10, khu dân cư V, khu phố B, phường B, thị xã T, tỉnh Bình Dương, bị cáo Trần Vũ L cầm dao đâm ông Nguyễn Thanh H 01 nhát vào sau lưng. Lúc này, bị cáo Phạm Thị N Y thấy L đâm nhầm người nên chỉ tay về phía ôngTrương Văn D rồi nói “thằng này nè”, L tiếp tục cầm dao đâm một nhát vào vùng ngực của D . Theo Kết luận Giám định Pháp y thì tỷ lệ tổn thương cơ thể của ông D là 08%, của ông H là 09%. Hành vi của các bị cáo Trần Vũ L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và hành vi của bị cáo Phạm Thị N Y đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An đã truy tố các bị cáo và việc thay đổi một phần quyết định truy tố đối với bị cáo Luân tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức được việc làm của mình là vi phạm nhưng vẫn cố tình thực hiện. Bị cáo L không có mâu thuẩn gì với bị hại nhưng vẫn sử dụng dao, là hung khí nguy hiểm đâm họ gây thương tích, thể hiện bản chất côn đồ. Bị cáo Y chỉ vì mâu thuẩn nhỏ, cho rằng bị hại D trêu ghẹo mình, thấy L đâm nhầm người, không can ngăn mà còn chỉ ông D cho bị cáo L tiếp tục sử dụng dao để đâm. Hành vi của các bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương, do đó cần xử phạt các bị cáo với mức án tương xứng hành vi phạm tội nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Trong vụ án có vai trò đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn. Các bị cáo không có sự bàn bạc, phân công cụ thể. Tuy nhiên bị cáo L là người chuẩn bị hung khí, trực tiếp gây thương tích cho nhiều bị hại, điều đó thể hiện bản chất của bị cáo L nguy hiểm cho xã hội cao bị cáo Ynên phải chịu mức án cao hơn.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là tình tiết giảm nhẹ theo điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[8] Lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật nên chấp nhận.

[9] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa, bị hại ông H yêu cầu bồi thường số tiền 30.000.000 đồng, ông D yêu cầu bồi thường số tiền 15.392.000 đồng. Các bị cáo nhận có trách nhiệm liên đới bồi thường theo yêu cầu của các bị hại, trong đó mỗi bị cáo chịu 1/2 nên chấp nhận.

Đi với Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ôngĐặng Văn Q là chủ quán Nướng đá yêu cầu nhận lại chiếc ghế, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên không xem xét.

[10] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan Điều tra thu giữ: 01 con dao Thái Lan là công cụ phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy; 01 ghế bằng khung sắt của ông Q và 01 xe mô tô biển số 69D1-289.39 của bị cáo Y, không liên quan đến vụ án nên hoàn trả cho chủ sở hữu.

[11] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự, dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Đim a, i khoản 1 Điều 134, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 47, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Trần Vũ L;

Điểm a khoản 1 Điều 134, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 47, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Phạm Thị N Y;

Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

Các Điều 288, 584, 585, 586, 587 và 590 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự:

Tuyên bố các bị cáo Trần Vũ L và Phạm Thị N Y phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt bị cáo Trần Vũ L 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/6/2019.

Xử phạt bị cáo Phạm Thị N Y 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/6/2019.

2. Về trách nhiệm dân sự:

Buộc các bị cáo Trần Vũ L và Phạm Thị N Y có trách nhiệm liên đới bồi thường như sau: Bồi thường cho ông Nguyễn Thanh H số tiền 30.000.000 đồng, trong đó phần của mỗi bị cáo là 15.000.000 đồng; Bồi thường cho ôngTrương Văn D số tiền 15.392.000 đồng, trong đó phần của mỗi bị cáo là 7.696.000 đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

3. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 con dao Thái Lan, cán bằng nhựa màu vàng, lưỡi dao màu trắng. Giao trả cho bị cáo Phạm Thị N Y xe mô tô biển số 69D1-289.39 (số khung RLCS5C6HOGY254641, số máy 5C6H-254632). Giao trả cho ôngĐặng Văn Q 01 ghế bằng khung sắt, có lót gỗ, kích thước 4 x 4 x 8cm.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 01/10/2019).

4. Về án phí: Mi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 1.134.800 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Các bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 267/2019/HS-ST ngày 24/10/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:267/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;