Bản án 265/2018/HN-ST ngày 30/11/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI , TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 265/2018/HN-ST NGÀY 30/11/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 30 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới xét xửsơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 438/2018/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 6 năm 2018 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 247/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 10 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Bông E - Sinh năm 1983 (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp T, xã M, huyện C, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh H – Sinh năm 1983 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp T, xã M, huyện C, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và tờ tự khai nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bông E trình bày: Chị và anh H sống chung vào năm 2010 đến năm 2014 đăng ký kết hôn. Hôn nhân do hai người tự tìm hiểu và quyết định. Vợ chồng sống đến năm 2016 phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, chồng ăn chơi, chị đã tạo cơ hội nhiều lần nhưng chồng không sửa chữa. Vợ chồng không còn sống chung từ đầu năm 2017 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị yêu cầu được ly hôn anh Nguyễn Thanh H.

Về con chung: Chị Bông E xác định vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Viết H – Sinh ngày 02/01/2013, hiện đang sống với chị. Sau khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Chị Bông E xác định không có.

Về nợ chung: Chị Bông E xác định vợ chồng không có nợ ai và cũng không ai nợ vợ chồng.

Anh Nguyễn Thanh H đã được Tòa án thông báo thụ lý vụ án xin ly hôn của chị Bông E, nhưng không có ý kiến gì và vắng mặt trong các buổi hòa giải, nên không lấy lời khai và hòa giải được.

Tại phiên tòa, chị Bông E vẫn giữ nguyên yêu cầu.

Anh Nguyễn Thanh H đã được Tòa án triệu tập để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]- Về hình thức: Chị Nguyễn Thị Bông E khởi kiện xin ly hôn anh Nguyễn Thanh H có nơi cư trú ấp T, xã M, huyện C, tỉnh An Giang nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền.

Anh Nguyễn Thanh H đã được tống đạt hợp lệ đến lần thứ 2 để tham dự phiên tòa, nhưng anh H vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Nguyễn Thanh H là có căn cứ.

[2]- Về nội dung: Anh Nguyễn Thanh H và chị Nguyễn Thị Bông E sống chung vào năm 2010, đến năm 2014 đăng ký kết hôn. Vợ chồng sống đến năm 2016 đã phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, chồng ăn chơi, chị đã nhiều lần tạo điều kiện, nhưng chồng không sửa chữa. Vợ chồng không còn sống chung từ đầu năm 2017 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị Bông E yêu cầu được ly hôn anh H. Hội đồng xét xử xét thấy, chị Bông E và anh H kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, nên quan hệ hôn nhân giữa hai người được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Trong quá trình giải quyết, anh H đã được Tòa án thông báo thụ lý vụ án xin ly hôn của chị Bông E, nhưng anh không có ý kiến gì và vắng mặt trong các buổi hòa giải. Điều này chứng tỏ tình cảm của anh H đối với chị Bông E đã không còn, mâu thuẫn giữa hai người đã trầm trọng, nếu sống chung lại cũng không hạnh phúc. Do đó, việc chị Bông E xin ly hôn anh H là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[2.1]- Về quan hệ con chung: Chị Bông E xác định vợ chồng có 01 con chung tên Nguyễn Viết H – Sinh ngày 02/01/2013, hiện đang sống với chị Bông E. Sau khi ly hôn, chị Bông E yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử xét thấy, từ khi ly thân đến nay, cháu H sống chung với chị Bông E, nên tình cảm gắn liền với người nuôi dưỡng và để cho cháu H ổn định cuộc sống sau khi cha mẹ ly hôn, nên để chị Bông E tiếp tục nuôi dưỡng cháu H là phù hợp. Do đó, yêu cầu của chị Bông E có cơ sở chấp nhận.

Do chị Bông E không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.2] Về quan hệ tài sản chung: Chị Bông E xác định không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3]- Về nợ chung: Không có.

[3]- Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016.

Chị Nguyễn Thị Bông E phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 28, 35, 39, 144, 147, 227, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội số326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Bông E xin ly hôn anh Nguyễn Thanh H.

Về quan hệ con chung: Chị Nguyễn Thị Bông E được tiếp tục nuôi con chung tên Nguyễn Viết H – Sinh ngày 02/01/2013, hiện đang sống với chị Bông Em. Anh Hải không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh H không trực tiếp nuôi con, nhưng anh có quyền tới lui thăm nom con chung không ai được quyền ngăn cản anh H thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Toà án xem xét và quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hay việc cấp dưỡng nuôi con.

Về quan hệ tài sản chung: Không có, nên không xem xét.

Về nợ chung: Ghi nhận chị Bông E xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có nguyên đơn khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung trong thời kỳ hôn nhân thì chị Bông E và anh H vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

- Về án phí: Chị Nguyễn Thị Bông E phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai số 0019783 ngày 15/6/2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Chợ Mới.

Đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 265/2018/HN-ST ngày 30/11/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:265/2018/HN-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;