Bản án 263/2019/HNGĐ-ST ngày 30/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 263/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 30 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 224/2019/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 95/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lê Thị A, sinh năm 1988

Địa chỉ: thôn 9 X, xã T, huyện H, tỉnh Thanh Hoá.

Bị đơn: Anh Lê Văn B, sinh năm 1983

Địa chỉ: thôn Th, xã Ph, huyện H, tỉnh Thanh Hoá.

Tại phiên tòa có mặt nguyên đơn chị Lê Thị A, vắng mặt bị đơn anh Lê Văn B không có lý do dù đã được triệu tập hợp lệ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 08/8/2019, bản tự khai ngày 15/8/2019 và lời khai tại phiên tòa của nguyên đơn chị Lê Thị A thể hiện:

Về hôn nhân: Tôi và anh Lê Văn B tự nguyện kết hôn với nhau và được Ủy ban nhân dân xã Ph cấp giấy chứng nhận kết hôn năm 2011. Sau khi cưới vợ chồng sống không có hạnh phúc và luôn xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống, vì vậy vợ chồng tôi sống ly thân từ năm 2013 cho đến nay. Nay tôi xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh Lê Văn B.

Về con: Chúng tôi có một con chung là cháu Lê C, sinh ngày 29/8/2012, hiện đang ở với tôi. Nguyện vọng của tôi được nuôi cả con và không yêu cầu anh B cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại lời trình bày ngày 16/8/2019 của bà Nguyễn Thị Ch (mẹ đẻ anh Lê Văn B) thể hiện: Năm 2011 gia đình tôi cưới vợ cho anh B là chị Lê Thị A. Anh B và chị A sống cùng vợ chồng tôi 01 năm thì ra ở riêng. Nay chị A xin ly hôn anh B, gia đình tôi nhận được giấy của Tòa triệu tập anh B đến làm việc nhưng do anh B đi làm ăn xa không có nhà, tôi không có địa chỉ cụ thể của anh B vì anh làm thuê nay đây mai đó. Anh B thường xuyên liên lạc về với tôi và chị gái B, có nói qua điện thoại là nếu cô A cố tình ly hôn thì anh cũng đồng ý nhưng anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con.

Về con: anh B và chị A có 01 con chung là cháu Lê C, sinh ngày 29/8/2012. Từ cuối năm 2012 cho đến nay, cô A bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở, cuối năm 2013 chuyển khẩu cả hai mẹ con về xã T.

Về tài sản: anh B và chị A không có tài sản chung.

Tại lời trình bày ngày 15/8/2019 của cháu Lê C thể hiện: tôi xin được ở với mẹ tôi là Lê Thị A.

Quá trình giải quyết vụ án, anh Lê Văn B không có mặt tại Tòa án để làm việc, Tòa án đã trực tiếp đến nhà anh B nhưng anh đi làm không có nhà nên đã giao các giấy triệu tập và các văn bản tố tụng của Tòa án cho mẹ đẻ anh là bà Nguyễn Thị Ch, bà cam đoan giao hoặc thông báo nội dung văn bản cho anh B.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H trình bày nhận xét về trình tự thủ tục tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Cơ quan tiến hành tố tụng và các đương sự tuân thủ đúng trình tự thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật.

Quan điểm về việc giải quyết vụ án: Tình trạng hôn nhân của anh Lê Văn B và chị Lê Thị A đã thực sự trầm trọng, chị A đề nghị ly hôn, anh B biết và đã trao đổi với mẹ anh là bà Nguyễn Thị Chen là anh thống nhất ly hôn, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết chấp nhận đề nghị xin ly hôn của chị A. Về con: Vợ chồng anh chị có 01 con chung là cháu Lê C, sinh ngày 29/8/2012 ổn định và khỏe mạnh. Anh B và chị A đều có mong muốn được trực tiếp nuôi con nhưng do nguyện vọng của cháu Lê C là muốn ở với mẹ, lâu nay cháu đang ở ổn định với chị A, anh B hiện tại không có mặt tại địa phương, vì vậy để đảm bảo cho cháu Lê C được sự chăm sóc trực tiếp của bố hoặc mẹ nên không thể giao cho anh B trực tiếp nuôi con mà giao cháu cho chị A trực tiếp nuôi là phù hợp. Về cấp dưỡng: chị A không yêu cầu nên đề nghị không xem xét. Về tài sản và công nợ: các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị không xem xét.

Tại phiên tòa nguyên đơn chị Lê Thị A không có sự thay đổi, bổ sung, rút toàn bộ yêu cầu khởi kiện, các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Anh Lê Văn B và chị Lê Thị A tự nguyện kết hôn, được Ủy ban nhân dân xã Ph, huyện H, Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 15/12/2011 theo đúng quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân gia đình, là hôn nhân hợp pháp.

Vợ chồng anh chị sống với nhau được một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống. Anh chị sống ly thân từ nhiều năm nay không quan tâm đến nhau, anh Lê Văn B biết việc chị A xin ly hôn tại Tòa án, anh cũng trao đổi với mẹ đẻ của mình là thống nhất ly hôn, anh không đến Tòa án để làm việc thể hiện anh cũng không thiết tha đối với việc hòa giải hàn gắn gia đình. Như vậy tình trạng hôn nhân của anh chị đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vì vậy áp dụng Điều 51, 56 Luật hôn nhân gia đình, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị A là phù hợp với tình trạng hôn nhân hiện nay của anh chị.

[2] Về con: Anh Lê Văn B và chị Lê Thị A có một con chung là cháu Lê C, sinh ngày 29/8/2019. Anh B và chị A cùng đề nghị được trực tiếp nuôi con, tuy nhiên do nguyện vọng của cháu Lê C cũng mong muốn được ở với chị A và lâu nay cháu đang ở cùng chị ổn định, hơn nữa anh B đang đi làm ăn xa không thể trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu C. Vì vậy cần giao cháu Lê C cho chị Lê Thị A trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp. Nếu sau này anh B vẫn có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con thì anh có thể làm thủ tục đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con theo luật định.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Lê Thị A không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về tài sản: Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tố tụng: Ngày 20/8/2019, Tòa án đã tiến hành xác minh nguyên nhân tình trạng tranh chấp mâu thuẫn theo quy định tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự, lãnh đạo địa phương xã Ph cho biết: anh Lê Văn B và chị Lê Thị A đã làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ph theo giấy chứng nhận kết hôn số 138 quyển số 01/2011 cấp ngày 15/12/2011. Anh B đi làm ăn không có nhà, anh có hộ khẩu tại địa phương còn chị A đã về nhà ngoại ở xã T, huyện Hoằn Hóa ở từ lâu đến nay.

Quá trình Tòa án giải quyết vụ án, chị Lê Thị A có đơn đề nghị không hòa giải nên căn cứ Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự không tiến hành hòa giải đối với anh chị. Đối với anh Lê Văn B dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần, đã giao toàn bộ giấy triệu tập và văn bản tố tụng của Tòa án cho mẹ anh là bà Nguyễn Thị Chen, bà cam đoan thông báo lại nội dung cho anh B nhưng anh đều không có mặt tại Tòa án thể hiện anh có thái độ bỏ mặc tình trạng hôn nhân của mình, không mong muốn hòa giải để đoàn tụ. Tại phiên tòa ngày 12/9/2019, anh Lê Văn B vắng mặt không có lý do dù đã được triệu tập hợp lệ nên Hội đồng xét xử đã hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 1 Điều 227, Điều 233 và 235 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay, anh Lê Văn B vắng mặt không có lý do nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiếp tục đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh là đúng quy định của pháp luật.

Về án phí: Nguyên đơn chị Lê Thị A phải chịu toàn bộ án phí dân sự trong vụ án ly hôn.

 Vì các lẽ trên:

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 271, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Xử:

Về hôn nhân: Chị Lê Thị A được ly hôn với anh Lê Văn B.

Về con: Công nhận cháu Lê C, sinh ngày 29/8/2012 là con chung của anh Lê Văn B và chị Lê Thị A. Giao cháu Lê C cho chị Lê Thị A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh Lê Văn B có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.

Về án phí: Nguyên đơn chị Lê Thị A phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0005746 ngày 14 tháng 8 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H. Chị A đã nộp đủ.

Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Lê Thị A được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn anh Lê Văn B có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 263/2019/HNGĐ-ST ngày 30/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:263/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;