Bản án 26/2021/HS-ST ngày 28/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẠI TỪ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 26/2021/HS-ST NGÀY 28/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 28 tháng 4 năm 2021, tại Nhà văn hóa xóm Đ, xã Y, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử công khai lưu động vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 32/2021/TLST-HS ngày 16 tháng 4 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2021/QĐXXST - HS, ngày 16 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nịnh Văn L (tên gọi khác: Không) sinh ngày 27/5/1993.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Xóm Đ, xã Y, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Sán Chí; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Làm ruộng.

Con ông: Nịnh Văn K (đã chết) và bà: Vi Thị Đ, sinh năm 1959.

Gia đình có bốn anh chị em, bị cáo là con thứ bốn và chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/01/2021 cho đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam, Công an tỉnh Thái Nguyên.

Người chứng kiến: Ông Lương Đình T, sinh năm 1973 (Có mặt) Địa chỉ: Xóm T, xã Y, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 08/01/2021 Tổ công tác Công an xã Y, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên tiến hành tuần tra kiểm soát trên địa bàn xóm T, xã Y, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên phát hiện 01 nam thanh niên đang đi bộ từ ngã ba đường Quốc lộ 37 rẽ vào xóm T, xã Y có biểu hiện nghi vấn liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ Công tác tiếp cận thì nam thanh niên tự giác khai báo họ tên là Nịnh Văn L, sau đó L tự giác lấy từ trong túi áo khoác phía trước bên trái đang mặc ra 02 gói nhỏ màu vàng, bên trong có chứa chất bột màu trắng (L khai nhận là ma túy loại Heroine của Luận mua về để sử dụng cho bản thân) giao nộp cho Tổ công tác. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với L, thu giữ và niêm phong vật chứng gồm: 02 gói giấy màu vàng, bên trong có chứa chất bột màu trắng (được niêm phong trong phong bì ký hiệu A), 01 điện thoại di động nhãn hiệu MASTEL cũ, đã qua sử dụng. Xét thấy vụ việc có dấu hiệu của tội phạm, Công an xã Y, huyện Đại Từ đã chuyển hồ sơ vụ việc, đối tượng, vật chứng đến Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Đại Từ để giải quyết theo thẩm quyền.

Căn cứ các tài liệu điều tra, xác minh, hồi 18 giờ 00 phút ngày 08/01/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Đại Từ tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở, địa điểm, phương tiện đối với Nịnh Văn L, kết quả khám xét không thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Hồi 21 giờ 40 phút ngày 08/01/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Đại Từ đã phối hợp với Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên tiến hành cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của Luận trong phong bì niêm phong ký hiệu A có khối lượng: 0,129 gam. Lấy toàn bộ mẫu chất bột niêm phong vào phong bì ký hiệu A1 gửi giám định.

Tại kết luận giám định số 234/KL-KTHS ngày 15/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,129 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Nịnh Văn L khai nhận như sau: Bản thân L là người nghiện ma túy, khoảng 20 giờ ngày 07/01/2021 L một mình đi xuống khu vực ngã ba Bưu điện tại thị trấn H, huyện Đại Từ mục đích để mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đây, L gặp và mua được 02 gói ma túy loại Heroine được gói bằng giấy màu vàng của một người đàn ông L không biết tên, địa chỉ với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, L cất giấu vào túi áo khoác phía trước bên trái L đang mặc rồi đi về nhà.

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 08/01/2021 L đang đi bộ tại khu vực ngã ba từ Quốc lộ 37 rẽ vào xóm T, xã Y thì gặp Tổ công tác, Công an xã Y đang làm nhiệm vụ, L đã tự giác giao nộp 02 gói ma túy Heroine và 01 điện thoại di động của L như nêu trên.

Lời khai nhận tội của Nịnh Văn L phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ, kết luận giám định.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 phong bì ký hiệu A1 (bên trong có 0,113 gam mẫu A1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu A1); 01 phong bì ký hiệu A2 (bên trong là vỏ giấy gói, vỏ phong bì niêm phong ký hiệu A); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel hiện đang bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đại Từ chờ xử lý.

Bản cáo trạng số 33/CT-VKSĐT ngày 15/4/2021 của Viện kiểm sát nhân huyện Đại Từ đã truy tố bị cáo Nịnh Văn L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Kết thúc phần tranh tụng, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên cáo trạng, đã luận tội đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nịnh Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 và Điều 47 BLHS năm 2015; Điều 106 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Xử phạt: Bị cáo Nịnh Văn L từ 24 tháng đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam.

Hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì ký hiệu A1 (bên trong có 0,113 gam mẫu A1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu A1); 01 phong bì ký hiệu A2 (bên trong là vỏ giấy gói, vỏ phong bì niêm phong ký hiệu A);

Tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel để đảm bảo việc thi hành án.

Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí HSST vào ngân sách nhà nước. Trong phần tranh tụng, bị cáo thừa nhận việc truy tố và xét xử là đúng người, đúng tội, không oan sai, bị cáo nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Đại Từ, Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại Từ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, các quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ của hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nịnh Văn L khai nhận: Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, khoảng 20 giờ ngày 07/01/2021 bị cáo một mình đi xuống khu vực ngã ba Bưu điện tại thị trấn H, huyện Đại Từ mục đích để mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Tại đây, bị cáo gặp và mua được 02 gói ma túy loại Heroine được gói bằng giấy màu vàng của một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ với giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, bị cáo cất giấu vào túi áo khoác phía trước bên trái đang mặc rồi đi về nhà. Đến khoảng 12 giờ 30 phút ngày 08/01/2021 bị cáo đang đi bộ tại khu vực ngã ba từ Quốc lộ 37 rẽ vào xóm T, xã Y thì gặp Tổ công tác, Công an xã Y đang làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát trên địa bàn, do bị cáo đang tàng trữ ma túy, tổ công tác yêu cầu kiểm tra bị cáo nên bị cáo đã tự giác giao nộp 02 gói ma túy Heroine cho tổ công tác, tổ công tác đã bắt người phạm tội quả tang và tạm giữ 01 điện thoại di động của bị cáo. Số Heroine bị cáo tàng trữ có khối lượng 0,129 gam (Không phẩy một hai chín gam) Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong - xác định khối lượng, kết luận giám định...

Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 08/01/2021 tại khu vực ngã ba từ Quốc lộ 37 rẽ vào xóm T, xã Y, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên Nịnh Văn L đã có hành vi tàng trữ trái phép ma túy loại Heroine có khối lượng 0,129 gam (Không phẩy một hai chín gam) với mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị bắt quả tang, thu giữ vật chứng. Hành vi trên của bị cáo L đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Nội dung điều luật như sau:

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, hành vi đó đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ quản lý độc dược của nhà nước nói chung và chất ma túy nói riêng, hành vi đó không những làm ảnh hưởng tới sức khỏe của con người mà còn ảnh hưởng và suy hao đến kinh tế là một trong những nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác nên cần xử lý nghiêm minh mới bảo đảm tính răn đe của pháp luật và mang tính phòng ngừa chung.

[4] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

[5] Xét tình tiết tiết giảm nhẹ TNHS thấy: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội nên bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Ngoài ra trong quá trình nghị án Hội đồng xét xử xem xét tình tiết bố đẻ bị cáo là ông Nịnh Văn K được tặng thưởng bằng khen của Sư đoàn 316 do có thành tích nên đây được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.

[6] Xét nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo xuất thân từ nhân dân lao động nhưng bị cáo không phát huy được bản chất sẵn có của người lao động để tu dưỡng rèn luyện bản thân trở thành công dân có ích cho xã hội, bị cáo là người nghiện ma túy trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội nên cần phải xử lý nghiêm minh.

[7] Căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử cần xử phạt bị cáo mức án từ 24 tháng đến 30 tháng tù và buộc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian có như vậy mới đủ để cải tạo và giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội đồng thời mang tính phòng ngừa chung như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là phù hợp.

[8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, không thu nhập ổn định, không việc làm ổn định nên cần miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[9] Vật chứng:

- 01 phong bì ký hiệu A1 (bên trong có 0,113 gam mẫu A1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu A1); 01 phong bì ký hiệu A2 (bên trong là vỏ giấy gói, vỏ phong bì niêm phong ký hiệu A) cần tịch thu tiêu hủy;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel thu giữ của bị cáo trong quá trình bắt người phạm tội quả tang cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án.

Về nguồn gốc số ma túy (loại Heroine) L khai mua của một người đàn ông không rõ tên, tuổi, địa chỉ tại khu vực Bưu điện thuộc thị trấn H, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Do không xác định được họ, tên, tuổi, địa chỉ của người đàn ông này nên cơ quan điều tra không có căn cứ để xem xét xử lý.

[10] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định nộp ngân sách nhà nước.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 và Điều 47 BLHS năm 2015; Điều 106 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Nịnh Văn L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Bị cáo Nịnh Văn L 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 08/01/2021.

- Hình phạt bổ sung (phạt tiền): Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Nịnh Văn L.

- Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì ký hiệu A1 (bên trong có 0,113 gam mẫu A1 còn lại sau giám định và vỏ bao gói mẫu A1); 01 phong bì ký hiệu A2 (bên trong là vỏ giấy gói, vỏ phong bì niêm phong ký hiệu A).

Tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel thu giữ của bị cáo để đảm bảo việc thi hành án - Về án phí: Buộc bị cáo Nịnh Văn L phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

(Tình trạng, đặc điểm của vật chứng như trong mô tả tại quyết định chuyển vật chứng số 28/QĐ - VKS ngày 15/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên).

Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 26/2021/HS-ST ngày 28/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:26/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đại Từ - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;