Bản án 26/2019/HNGĐ-ST ngày 23/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DẦU TIẾNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 26/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/07/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 23 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 137/2019/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2019 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 05 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Lan A, sinh năm 1986; hộ khẩu thường trú: Tổ B, ấp C, xã E, huyện D, tỉnh Bình Dương. Chỗ ở hiện nay: Khu phố F, thị trấn G, huyện P, tỉnh Bình Phước.

2. Bị đơn: Ông Trần Văn Toàn, sinh năm 1985; hộ khẩu thường trú: Tổ B, ấp C, xã E, huyện D, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn bà A, bị đơn ông T vắng mặt, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 07/3/2019, quá trình tham gia tố tụng nguyên đơn bà Nguyễn Thị Lan A trình bày:

Bà Nguyễn Thị Lan A và ông Trần Văn T chung sống với nhau, hôn nhân tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện D, tỉnh Bình Dương vào ngày 07/10/2005. Trong quá trình chung sống vợ chồng không hợp tính tình nên thời gian gần đây thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống vợ chồng đã ly thân không còn sống chung với nhau khoảng hơn một năm nay. Bà A xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn đoàn tụ với nhau được nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà A được ly hôn với ông Trần Văn T.

Quá trình chung sống, bà A và ông Toàn có 02 con chung tên Trần Hoàng K, sinh ngày 09/3/2004 và Trần Khánh L, sinh ngày 07/10/2012. Tại đơn khởi kiện ngày 07/3/2019 bà A yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Trần Khánh L, bà A giao con chung tên Trần Hoàng K cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng; không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Quá trình giải quyết vụ án bà A thay đổi yêu cầu khởi kiện, đồng ý giao 02 con chung tên Trần Hoàng K, sinh ngày 09/3/2004 và Trần Khánh L, sinh ngày 07/10/2012 cho ông Trần Văn T trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

Bà A không tranh chấp, không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung, nợ chung.

Chứng cứ bà A giao nộp: Bản chính đơn khởi kiện ngày 07/3/2019; bản sao giấy chứng minh nhân dân và bản sao sổ hộ khẩu của bà A; bản sao giấy chứng nhận kết hôn; bản sao giấy khai sinh của cháu Trần Hoàng K và cháu Trần Khánh L; bản tự khai ngày 07/3/2019 và ngày 14/6/2019 của bà A; Đơn đề nghị giải quyết vắng mặt ngày 14/6/2019 của bà A.

Ngoài ra, bà A không có yêu cầu khác, không cung cấp chứng cứ gì thêm.

* Quá trình tham gia tố tụng bị đơn ông Trần Văn T trình bày:

Ông T thống nhất với trình bày của bà Nguyễn Thị Lan A về quan hệ hôn nhân, con chung và nguyên nhân mâu thuẫn. Đồng thời, ông T xác định tình cảm vợ chồng không còn, đã ly thân khoảng hơn một năm nay, không thể hàn gắn đoàn tụ với nhau nên đồng ý ly hôn với bà Nguyễn Thị Lan A.

Về con chung: Ông T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung tên Trần Hoàng K, sinh ngày 09/3/2004 và Trần Khánh L, sinh ngày 07/10/2012, không yêu cầu bà Nguyễn Thị Lan A cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Ông T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chứng cứ ông T giao nộp: Bản tự khai ngày 05/6/2019 của ông T; Đơn đề nghị giải quyết vắng mặt của ông T.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương có ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục được pháp luật quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng, đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định. Nguyên đơn bà A, bị đơn ông T có yêu cầu xét xử vắng mặt là phù hợp với quy định tại các Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên đề nghị xét xử vắng mặt các đương sự. Không kiến nghị khắc phục, bổ sung các thủ tục tố tụng. Quan hệ pháp luật là ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu có tại hồ sơ vụ án đã được Hội đồng xét xử làm rõ tại phiên tòa nhận thấy mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa bà A và ông T là trầm trọng, không hàn gắn đoàn tụ được nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn của bà Nguyễn Thị Lan A. Bà A được ly hôn với ông T; giao con chung tên Trần Hoàng K, sinh ngày 09/3/2004 và Trần Khánh L, sinh ngày 07/10/2012 cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục; ghi nhận sự tự nguyện của ông T không yêu cầu bà A cấp dưỡng nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Lan A và bị đơn ông Trần Văn T vắng mặt có yêu cầu xét xử vắng mặt là phù hợp với quy định tại các Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn bà Nguyễn Thị Lan A và bị đơn ông Trần Văn T.

[1.2] Nguyên đơn bà A khởi kiện yêu cầu ly hôn đối với bị đơn ông Trần Văn T có hộ khẩu thường trú tại ấp C, xã E, huyện D, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng, tỉnh Bình Dương theo quy định tại các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, quan hệ pháp luật tranh chấp là “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Lan A và ông Trần Văn T chung sống với nhau, hôn nhân tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện D, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận kết hôn số 32, quyển số 01 ngày 07/10/2005. Như vậy, hôn nhân giữa bà A và ông T là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận.

Bà A trình bày quá trình chung sống thời gian gần đây bà và ông T thường phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm, đã ly thân khoảng hơn một năm nay không còn sống chung với nhau, tình cảm vợ chồng không còn nên bà A yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông T. Ông T thống nhất với trình bày của bà A về mâu thuẫn gia đình, thời gian ly thân và đồng ý ly hôn với bà A.

Lời trình bày của các đương sự phù hợp với biên bản xác minh về tình trạng hôn nhân của Tòa án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa bà A, ông T đã trầm trọng. Bà A và ông T không đưa ra được giải pháp để hàn gắn tình cảm và cũng không muốn hàn gắn tình cảm. Hiện cả hai đã ly thân không còn quan tâm chăm sóc cho nhau, cả hai đều có yêu cầu giải quyết vắng mặt nên Tòa án không thể tiến hành hòa giải được. Xét quan hệ hôn nhân phải được xây dựng trên tình yêu thương, trách nhiệm, nghĩa vụ, sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau. Bà A và ông T không tìm được tiếng nói chung, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà A yêu cầu ly hôn với ông T là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[2.2] Về con chung: Quá trình giải quyết vụ án bà A và ông T thống nhất giao con chung tên Trần Hoàng K, sinh ngày 09/3/2004 và Trần Khánh L, sinh ngày 07/10/2012 cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục, ông T không yêu cầu bà A cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy, hiện nay cháu Trần Hoàng K và Trần Khánh L đang do ông T nuôi dưỡng. Tại Bản tự khai ngày 14/6/2019, cháu Trần Hoàng K cũng có nguyện vọng được sống với cha là ông Trần Văn T. Nguyện vọng của cháu K phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, phù hợp với yêu cầu của bà A, ông T nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Ghi nhận sự tự nguyện của ông T về việc không yêu cầu bà A cấp dưỡng nuôi con.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Bà A, ông T không tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát về nội dung vụ án, các thủ tục tố tụng, quá trình tiến hành tố tụng cũng như diễn biến tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật.

[4] Về án phí: Nguyên đơn bà A phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 147, 227, 228, 235, 238, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình;

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Lan A đối với ông Trần Văn T về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

1.1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Lan A được ly hôn với ông Trần Văn T.

1.2. Về con chung: Giao con chung tên Trần Hoàng K, sinh ngày 09/3/2004 và Trần Khánh L, sinh ngày 07/10/2012 cho ông Trần Văn T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Ghi nhận sự tự nguyện của ông Trần Văn T về việc không yêu cầu bà Nguyễn Thị Lan A cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà Nguyễn Thị Lan A và ông Trần Văn T đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung theo quy định của pháp luật. Người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.

1.3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị Lan A và ông Trần Văn T không tranh chấp, không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

2. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Lan A phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm mà bà A đã nộp theo biên lai thu số: AA/2016/0031373 ngày 03 tháng 4 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện D, tỉnh Bình Dương.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 26/2019/HNGĐ-ST ngày 23/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:26/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Dầu Tiếng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;