TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 252/2019/HS-PT NGÀY 31/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 31 tháng 5 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 167/2019/HSPT ngày 18/4/2019 đối với bị cáo Ma Nhật T. Do có kháng cáo của bị cáo T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2019/HS-ST ngày 11/3/2019 của Toà án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Ma Nhật T; giới tính: Nam; sinh năm: 1998 tại Bình Phước; hộ khẩu thường trú: Ấp A, xã T, thị xã Đ, tỉnh Bình Phước; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Tày, tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: Không; con ông Ma Văn N và bà Bùi Thị L; hoàn cảnh gia đình: Chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giam từ ngày 26/8/2018. (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ma Nhật T và ông Nguyễn Đại Đ là bạn bè quen biết nhau đã lâu. Ngày 23/7/2018, ông Đ dùng xe máy hiệu SH 125i màu trắng đen, biển số 76F1-227.24 chở T đi tìm việc làm nhưng chưa được nên cả hai ghé qua nhà bạn của ông Đ tại địa chỉ: Đường A, Phường B, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh để nghỉ trưa. Khoảng 13 giờ cùng ngày, khi ông Đ đang ngủ trên lầu 3, T thấy ông Đ để điện thoại Iphone X màu đen, bóp tiền ở sàn nhà gần phía tay bên trái ông Đ còn chìa khoá xe máy để ở trên bàn đặt trong phòng. Lúc này, T lén lút lấy trộm điện thoại, bóp tiền cùng chìa khoá xe và đi xuống tầng trệt lấy trộm xe máy hiệu SH 125i màu trắng đen, biển số 76F1-xxxxx của ông Đ rồi chạy xe xuống Vũng Tàu. Trên đường đi, T ghé vào một cửa hàng điện thoại di động (không rõ địa chỉ) và bán chiếc điện thoại Iphone X với giá 3.000.000 đồng. T mở bóp của ông Đ ra thấy có tổng cộng 10.000.000 đồng nên đã lấy toàn bộ tiền cùng giấy tờ đăng ký xe cất trong người, số giấy tờ còn lại và chiếc bóp T vứt tại bãi đất trống. Ngày 02/8/2018, T cầm cố chiếc xe máy hiệu SH 125i, biển số 76F1-xxxxx tại Tiệm cầm đồ PA (địa chỉ: Đường TC, Phường D, thành phố V) với giá 25.000.000 đồng. Toàn bộ số tiền này T đã tiêu xài hết. Ngày 26/8/2018, T đang chơi game ở đường N, Phường M, quận L, Thành phố Hồ Chí Minh thì bị Cơ quan Công an phát hiện, bắt giữ.
Theo Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Phú Nhuận ngày 28/8/2018 thì:
- 01 xe máy hiệu Honda SH125i màu trắng đen có giá 45.000.000 đồng.
- 01 điện thoại di động Iphone X màu đen 256GB có giá 25.000.000 đồng. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Phú Nhuận, Ma Nhật T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Về trách nhiệm dân sự:
Ông Nguyễn Đại Đ không yêu cầu bị cáo bồi thường.
Bà Phan Thị L (chủ tiệm cầm đồ PA) không có đơn yêu cầu bị cáo T trả lại số tiền 25.000.000 đồng.
Tại Bản cáo trạng số 68/CT-VKSPN ngày 30/11/2018, Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận đã truy tố bị cáo Ma Nhật T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2019/HS-ST ngày 11/3/2019 của Toà án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh đã nhận định bị cáo Ma Nhật T đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của ông Nguyễn Đại Đ có tổng giá trị là 80.000.000 đồng. Từ đó, tuyên bố bị cáo Ma Nhật T phạm tội “Trộm cắp tài sản” và áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Ma Nhật T 03 năm tù. Đồng thời, buộc bị cáo T nộp lại số tiền 38.000.000 đồng để sung quỹ Nhà nước. Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 25/3/2019, bị cáo Ma Nhật T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Ma Nhật T thừa nhận hành vi phạm tội của mình như án sơ thẩm đã tuyên và giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Ngoài ra, bị cáo T đề nghị được miễn nộp lại số tiền có được từ hành vi phạm tội là 38.000.000 đồng do bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, xử phạt bị cáo T 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Ma Nhật T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như án sơ thẩm đã tuyên, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng thu giữ cùng các chứng cứ khác đã thu thập có được trong hồ sơ vụ án. Từ đó, xác định được: Khoảng 13 giờ ngày 23/7/2018 tại nhà số: Đường A, Phường B, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh, Ma Nhật T đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của ông Nguyễn Đại Đ gồm: 01 điện thoại di động hiệu Iphone X, 01 xe máy Honda hiệu SH 125i và 01 chiếc bóp bên trong có 10.000.000 đồng, có tổng giá trị là 80.000.000 đồng (Theo Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Phú Nhuận ngày 28/8/2018). Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác mà tài sản chiếm đoạt trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng của bị cáo Ma Nhật T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2019/HSST ngày 11/3/2019 của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử bị cáo Ma Nhật T về tội danh và điều luật như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tài sản hợp pháp của cá nhân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo nhận thức rõ việc bị cáo chiếm đoạt tài sản là phạm pháp, thế nhưng bị cáo vẫn ngang nhiên thực hiện tội phạm vì động cơ tư lợi riêng của cá nhân mình, điều đó cho thấy bị cáo xem thường pháp luật, cần phải áp dụng mức hình phạt thật nghiêm mới tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo cũng như đảm báo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
Xét đơn kháng cáo của bị cáo Ma Nhật T làm trong thời hạn luật định là hợp lệ nên thuộc trường hợp được xem xét tại cấp phúc thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không đưa ra được tình tiết nào mới để Hội đồng xét xử xem xét. Xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt thể hiện việc bị cáo không có tiền án, tiền sự, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, cần áp dụng thêm cho bị cáo. Tuy nhiên, mức hình phạt 03 năm tù mà Toà án cấp sơ thẩm đã quyết định đối với bị cáo là thoả đáng, bởi lẽ bị cáo thực hiện hành vi phạm tội đối với người đã giúp đỡ mình nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Việc tịch thu, sung vào Ngân sách Nhà nước được áp dụng đối với số tiền có được từ việc mua bán tài sản phạm tội theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Xét tổng số tiền bị cáo có được từ việc phạm tội là 38.000.000 đồng nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị cáo nộp lại số tiền này là phù hợp quy định của pháp luật. Do đó, không chấp nhận yêu cầu của bị cáo về việc miễn nộp lại số tiền này.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét lại.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự; áp dụng điểm c khoản 2 Điều 173 và điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Ma Nhật T giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Phạt bị cáo Ma Nhật T 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/8/2018.
Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 252/2019/HS-PT ngày 31/05/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 252/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/05/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về