Bản án 25/2020/HS-ST ngày 02/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TRÀ VINH, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 25/2020/HS-ST NGÀY 02/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 02 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 20/2020/HSST, ngày 20 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Trọng M, sinh ngày 17/8/1973; nơi cư trú: số 289 K D V, khu phố 6, phường A, quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trọng L, sinh năm 1935 và bà Trần Thị B, sinh năm 1937. Anh chị em ruột có 09 người, lớn nhất sinh năm 1959, nhỏ nhất sinh năm 1975.

Tiền án: 02 (đã xóa án tích), tiền sự: 02 lần (đã xóa). Bị bắt tạm giữ từ ngày 03/01/2020 sau đó chuyển sang tạm giam cho đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa;

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Huỳnh Thị Y, sinh năm 1969 (vắng mặt) Nơi cư trú: ấp B T, xã N L, huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh.

2. Anh Hà Văn E, sinh năm 1975 (vắng mặt) Nơi cư trú: số 27 D Q Đ, khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Nguyễn Trọng M là đối tượng nghiện ma túy (loại Heroine) từ năm 2002. Để có ma túy sử dụng nhằm thỏa mãn cơn nghiện, vào khoảng 10 giờ ngày 01/01/2020, bị cáo một mình điều khiển xe mô tô Wave, biển số 84B1-454.11 chạy đến khu vực đường Bùi Viện thuộc Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, để mua ma túy (loại Heroine) về sử dụng. Khi đến nơi, bị cáo gặp người đàn ông khoảng 30 tuổi (không rỏ nhân thân và địa chỉ), hỏi mua 01 (một) bịch ma túy (loại Heroine) với giá 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng). Sau khi mua được ma túy, bị cáo điều khiển xe về nhà trọ tại khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, do anh Hà Văn E , sinh năm 1975, ngụ số 27, đường D V Đ, khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, làm chủ để cất giấu ma túy.

Đến khoảng 08 giờ ngày 03/01/2020, bị cáo lấy ma túy ra sử dụng một ít và phân chia thành 05 (năm) tép nhỏ cất giấu tại phòng trọ. Sau đó, bị cáo lấy 05 (năm) tép ma túy loại Heroine cất giấu vào túi áo bên trái và điều khiển xe mô tô Wave, biển kiểm soát 84B1-454.11 đi uống cà phê. Đến 09 giờ 50 phút cùng ngày, bị cáo đang điều khiển xe chạy trên đường thuộc hẻm 63, khóm 1, phường 5, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, thì bị Công an thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, phát hiện bắt quả tang trên người bị cáo có cất giấu 05 (năm) đoạn ống nhựa màu trắng hàn kín bên trong có chứa chất (nghi là chất ma túy). Đồng thời, tạm giữ một số tang vật gồm: 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 022574821, cấp ngày 11/5/2009, nơi cấp Công an thành phố Hồ Chí Minh, tên Nguyễn Trọng M; 01 (một) giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 049813, biển số 84B1-454.11, tên chủ xe Huỳnh Ngọc C; 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung, màu bạc, loại cảm ứng, số sim 1: 0978596242, số sim 2: 0397742103; 01 (một) áo sơ mi; 01 (một) chiếc xe gắn máy dạng hai bánh, biển số 84B1-454.11.

Sau khi bắt quả tang bị cáo cất giấu ma túy trong người, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà Vinh, tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của bị cáo tại nhà trọ thuộc khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. Trước khi tiến hành khám xét Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, yêu cầu bị cáo nếu còn cất giấu ma túy thì mang ra giao nộp. Qua đó, bị cáo đã tự nguyện lấy 02 (hai) bịch nylon trong suốt có viền màu đỏ hàn kín bên trong có chứa chất bột dạng nén (nghi là chất ma túy) còn lại ra giao nộp cho lực lượng Công an nên tiến hành thu giữ và niêm phong tang vật. Đồng thời, tạm giữ một số tang vật gồm: 01 (một) hộp nhựa màu trắng; 01 (một) bịch nylon màu đen;

01 (một) bơm kim tiêm, có nắp màu đỏ (ống chích) chưa qua sử dụng; 02 (hai) đoạn ống nhựa màu trắng; 01 (một) cây kéo nhấp chỉ bằng kim loại.

Ngày 03/01/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, tiến hành trưng cầu giám định chất ma túy tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Trà Vinh.

Tại bản kết luận số: 08/KLGĐ, ngày 06 tháng 01 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Trà Vinh, kết luận:

- Gói 1: Chất bột màu trắng đựng trong 05 (năm) đoạn ống nhựa màu trắng hàn kín được niêm phong trong gói niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy; Loại Heroine; Tổng khối lượng: 0,2982 gam.

- Gói 2: Chất bột màu trắng đựng trong 02 (hai) bịch nylon có viền màu đỏ được niêm phong trong gói niêm phong ký hiệu M2 gửi giám định là ma túy; Loại Heroine; Tổng khối lượng: 2,8432 gam.

Tổng trọng lượng 3,1414 gam ma túy, loại Heroine.

Đối với người đàn ông khoảng 30 tuổi bán ma túy cho bị cáo, quá trình khởi tố điều tra làm rõ bị cáo khai nhận không rỏ nhân thân và địa chỉ cũng như tên tuổi của người này, nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà Vinh, chưa xác minh làm rõ xử lý được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với anh Hà Văn E chủ nhà trọ tại khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, đã có hành vi thiếu trách nhiệm trong quản lý nhà trọ để bị cáo lợi dụng sử dụng và tàng trữ trái phép chất ma túy. Tuy nhiên, qua xác minh được biết anh Hà Văn E kinh doanh nhà trọ là thuê lưu trú theo tháng, không đủ điều kiện về an ninh, trật tự đối với ngành nghề kinh doanh có điều kiện nên không áp dụng xử phạt vi phạm hành chính. Do đây là lần đầu vi phạm nên Công an thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, đã giáo dục nhắc nhỡ cam kết không tái phạm.

Tại bản cáo trạng số: 13/CT-VKS-HS ngày 20/4/2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố Nguyễn Trọng M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo Nguyễn Trọng M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như bản cáo trạng đã nêu. Sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án và nhân thân của bị cáo. Vị đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng Minh từ 03 năm đến 04 năm tù. Đồng thời đề nghị xử lý tang vật chứng và buộc bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Trà Vinh, Điều tra viên. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Trọng M đã khai nhận: Bị cáo Nguyễn Trọng M là đối tượng nghiện ma túy. Vào khoảng 10 giờ ngày 01/01/2020 bị cáo điều khiển xe mô tô Wave biển số 84B1-454.11 đến khu vực đường Bùi Viện, thuộc Quận 1, thành phố Hồ Chí Minh mua 3.000.000 đồng ma túy (loại Heroin) của một người đàn ông không rõ tên địa chỉ, đem về nhà trọ tại khóm A, phường B, thành phố Trà Vinh cất giấu. Đến 09 giờ 50 phút ngày 03/01/2020 bị cáo đang điều khiển xe mô tô trên đường thuộc hẻm 63 khóm 1, phường 5, thành phố Trà Vinh thì bị Công an thành phố Trà Vinh phát hiện bắt quả tang bị cáo đang cất giấu trong người 05 đoạn ống nhựa màu trắng hàn kín bên trong có chứa ma túy. Đồng thời tiến hành khám xét nơi ở của bị cáo thu giữ thêm 02 bịch nylon trong suốt có viền màu đỏ hàn kín bên trong có chứa ma túy. Tổng khối lượng là 3,1414 gam ma túy loại Heroine cùng một số tang vật dùng để sử dụng ma túy.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với tang vật chứng đã thu giữ cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Trọng M đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng không bổ sung tài liệu, đồ vật và không đề nghị triệu tập thêm người tham gia tố tụng. Xác định tư cách người tham gia tố tụng theo quyết định đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Xét thấy bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh truy tố bị cáo Nguyễn Trọng M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là phù hợp với quy định của pháp luật, không oan, không sai.

[4] Xét tính chất của vụ án thì hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, ma túy là chất gây nghiện rất độc hại, nó không chỉ làm ảnh hưởng đến sức khỏe, khả năng tham gia lao động, học tập, đến sự phát triển bình thường về trí tuệ của người sử dụng, mà nó còn làm cho nhiều gia đình phải đổ vỡ hạnh phúc, nhà tan cửa nát. Ngoài ra nó còn là nguyên nhân làm phát sinh những căn bệnh thế kỷ và nhiều loại tội phạm khác nên rất nguy hiểm. Do đó, cần xử lý nghiêm để răn đe phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi phạm tội bị cáo đã thật thà khai báo, ăn năn hối cải. Là tình tiết giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở.

Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Huỳnh Thị Y và ông Hà Văn E không có yêu cầu. Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[5] Về vật chứng: 02 phong bì màu trắng có dán giấy niêm phong số: 08/M1 và 08/M2 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Trà Vinh; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 049813, tên chủ xe Huỳnh Ngọc C, biển số 84B1- 454.11, số khung: 84B1-454.11, số máy: 2FMH02112703; 01 áo sơ mi màu xanh dài tay, trên cổ áo có dòng chữ SADDLEBRED; 01 xe mô tô biển số: 84B1- 454.11, số khung: 84B1-454.11, số máy: 2FMH02112703; 01 hộp nhựa màu trắng không rõ hình, kích thước 6x13x23cm; 01 bịch nylon màu đen; 01 bơm kim tiêm có nắp màu đỏ (ống chích) chưa qua sử dụng; 02 đoạn ống nhựa màu trắng; 01 cây kéo nhấp chỉ bằng kim loại. Nghĩ nên tịch thu tiêu hủy và trả lại cho bị cáo.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng M 03 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/01/2020.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Huỳnh Thị y và ông Hà Văn E không có yêu cầu. Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

Căn cứ: Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 02 phong bì màu trắng có dán giấy niêm phong số: 08/M1 và 08/M2 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Trà Vinh; 01 áo sơ mi màu xanh dài tay, trên cổ áo có dòng chữ SADDLEBRED; 01 hộp nhựa màu trắng không rõ hình, kích thước 6x13x23cm; 01 bịch nylon màu đen; 01 bơm kim tiêm có nắp màu đỏ (ống chích) chưa qua sử dụng; 02 đoạn ống nhựa màu trắng; 01 cây kéo nhấp chỉ bằng kim loại. Trả lại cho bị cáo 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số:

049813, tên chủ xe Huỳnh Ngọc C, biển số: 84B1-454.11, số khung: 84B1-454.11, số máy: 2FMH02112703; 01 xe mô tô mang biển số: 84B1-454.11, số khung: 84B1-454.11, số máy: 2FMH 02112703.

Căn cứ: Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo Nguyễn Trọng M nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 25/2020/HS-ST ngày 02/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:25/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Trà Vinh - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;