TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 25/2018/HS-ST NGÀY 25/07/2018 VỀ TỘI HIẾP DÂM, HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI, CƯỚP TÀI SẢN, TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 25 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 27/2018/TLST-HS ngày 31 tháng 5 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2018/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2018, đối với các bị cáo:
1/ Lâm Văn S (X), sinh năm 1988 tại Tây Ninh; nơi cư trú: Ấp S1, xã S2, huyện S3, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Làm mướn; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Cao Đài; con ông Danh P, sinh năm 1960 và bà Lâm Thị K, sinh năm 1960; chung sống như vợ chồng với chị Lâm Thị Bé A, sinh năm 1999; chưa có con; tiền sự: Không có; tiền án: Có 3 tiền án:
- Bản án số: 118/2008/HSST ngày 26-12-2008 bị Tòa án nhân dân huyện L3 xử phạt S 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 138 của Bộ luật Hình sự 1999;
- Bản án số: 59/2011/HSST ngày 17-8-2011 bị Tòa án nhân dân huyện L3 xử phạt S 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 26-4-2011;
- Bản án số: 09/2015/HSST ngày 10-02-2015 bị Tòa án nhân dân huyện L3 xử phạt S 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 05-11-2014;
Cả ba bản án trên đều chưa được xóa án tích; bị bắt ngày 24-10-2017 và chuyển S tạm giam cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.
2/ Lê Minh T (X1), sinh năm 1982 tại tỉnh Vĩnh Long; nơi cư trú: Ấp T1, xã T2, huyện T3, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Văn B, sinh năm 1956 và bà Phạm Thị Kim H, sinh năm 1956; vợ là Lê Thị Kim Ph, sinh năm 1981; con có 01 người; tiền sự: Không có; tiền án: Có 01 tiền án, ngày 31-7-2008 bị Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xử phạt T 48 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, chưa bồi thường xong về phần trách nhiệm dân sự; bị bắt ngày 24-10-2017 và chuyển S tạm giam cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo Lâm Văn S:
Bà Lê Thị Kiều D, Luật sư - Văn phòng luật sư Nguyễn Duy Đ, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Tây Ninh; có mặt.
Bị hại:
1/ Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1993; nơi cư trú: Ấp L1, xã L2, huyện L3, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.
2/ Em Nguyễn Thị Quỳnh N, sinh năm 2004; nơi cư trú: Ấp L1, xã L2, huyện L3, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của em Nguyễn Thị Quỳnh N: Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1965 (là bà ngoại của em N); nơi cư trú: Ấp L1, xã L2, huyện L3, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.
3/ Em Nguyễn Thị Diệu M, sinh ngày 01-11-2002; nơi cư trú: Ấp M1, xã M2, huyện M3, tỉnh Đồng Tháp; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của em Nguyễn Thị Diệu M: Ông Nguyễn Thanh Th, sinh năm 1971 (là cha ruột của em M); nơi cư trú: Ấp M1, xã M2, huyện M3, tỉnh Đồng Tháp; vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại Nguyễn Thị Diệu M: Ông Trần Thế Hòa K, Luật sư – Cộng tác viên của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Tây Ninh; có mặt.
4/ Chị Nguyễn Thị Y, sinh năm 1991; nơi cư trú: Ấp Y1, xã Y2, thành phố Y3, tỉnh Tây Ninh; có mặt.
5/ Ông Lê Quang Tr, sinh năm 1973; nơi cư trú: Ấp Tr1, xã Tr2, huyện Tr3, tỉnh Tây Ninh; có mặt.
6/ Anh Lê Quang Ng, sinh năm 1999; nơi cư trú: Ấp Tr1, xã Tr2, huyện Tr3, tỉnh Tây Ninh; có mặt.
7/ Bà Hồ Thị E, sinh năm 1962; nơi cư trú: Ấp E1, xã E2, huyện E3, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.
8/ Chị Nguyễn Thị Ch, sinh năm 1993; nơi cư trú: Ấp E1, xã E2, huyện E3, tỉnh Tây Ninh; có mặt.
9/ Chị Nguyễn Thị R, sinh năm 1998; nơi cư trú: Ấp S1, xã S2, huyện S3, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.
10/ Em Mai Thị Mỹ K, sinh ngày 15-11-2001; nơi cư trú: Ấp S1, xã S2, huyện S3, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.
Người đại diện hợp pháp của em Mai Thị Mỹ K: Ông Mai Văn K1, sinh năm 1970 và bà Nguyễn Thị Ngọc K2, sinh năm 1978; cùng nơi cư trú: Ấp S1, xã S2, huyện S3, tỉnh Tây Ninh (Bà K2 ủy quyền cho ông K1 theo văn bản ủy quyền ngày 23-5- 2018); vắng mặt.
11/ Bà Nguyễn Thị Qu, sinh năm 1977; nơi cư trú: Ấp Qu1, xã Qu2, thành phố Y3, tỉnh Tây Ninh; có mặt.
12/ Ông Lê Ngọc G, sinh năm 1971; hộ khẩu thường trú: Ấp G1, xã G2, huyện G3, tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: Ấp G4, xã G5, thành phố G6, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.
13/ Chị Nguyễn Thị U, sinh năm 1990; nơi cư trú: Ấp G4, xã G5, thành phố G6, tỉnh Tây Ninh; có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
Chị Lâm Thị Bé A, sinh năm 1999; nơi cư trú: Ấp A1, xã A2, huyện A3, tỉnh Tây Ninh; có mặt.
Người làm chứng:
1/ Bà Hồ Ng, sinh năm 1962; nơi cư trú: Ấp E1, xã E2, huyện E3, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.
2/ Anh Nguyễn Ng1, sinh năm 1982; nơi cư trú: Ấp S1, xã S2, huyện S3, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lâm Văn S (X) và Lê Minh T (X1) quen nhau trong khoảng thời gian tháng 8 năm 2017 ở Casino 7 tầng Campuchia; do đánh bạc thua hết tiền cả hai phải cầm cố tài sản cá nhân nên S rủ T về Việt Nam để trộm cắp tài sản. Sau khi bàn bạc thống nhất, T có trách nhiệm chở S đến các khu vực nhà dân để S quan sát thấy nhà nào sơ hở thì lén vào lấy trộm tài sản gồm tiền, điện thoại; còn T ở phía bên ngoài chờ, khi nào S điện thoại, T đến chở S đi bán tài sản trộm được chia nhau. T mua cho S một cái nón len, màu đen trùm kín mặt đến cổ, chừa hai con mắt để đi trộm. Với thủ đoạn trên, trong thời gian từ ngày 23-8-2017 đến ngày 24-10-2017, S và T thực hiện hành vi phạm tội tất cả 05 lần trên địa bàn các huyện E3, huyện L3 và thành phố Y3, tỉnh Tây Ninh; cụ thể như sau:
Lần thứ nhất: Vào khoảng 22 giờ ngày 22-8-2017, sau khi đánh bạc tại Casino 7 tầng Campuchia thua hết tiền, S nhờ T điều khiển xe mô-tô Dream không giấy tờ chở S về Việt Nam để trộm cắp tài sản. Đến 01 giờ ngày 23-8-2017, cả hai đến khu vực ấp L1, xã L2, huyện L3, tỉnh Tây Ninh T dừng lại cho S xuống xe đi trộm cắp tài sản. S cởi quần áo đưa cho T giữ chỉ còn mặc quần sọt và quần lót, T đưa cho S nón len S đội vào đầu xong T chạy xe đi nơi khác còn S vào nhà của Nguyễn Thị C, ngụ Ấp L1, xã L2, huyện L3, tỉnh Tây Ninh mở cửa trước vào trong nhà S lấy trộm 01 điện thoại Iphone 5S của anh Nguyễn Văn L (là con ruột của bà V5); tiếp tục lấy 01 điện thoại Oppo Neo 7 trong phòng ngủ của cháu Nguyễn Thị Quỳnh N. Sau khi lấy điện thoại xong S bỏ ra khỏi nhà, rồi quay vô định lấy 01 máy tính bảng, lúc này cháu N thức dậy tìm điện thoại phát hiện tri hô lên S bỏ chạy thoát.
S chạy đến nhà của Nguyễn Thanh Th, ngụ Ấp L1, xã L2, huyện L3, tỉnh Tây Ninh S vào nhà từ cửa sau, qua ánh đèn S nhìn thấy chỉ có cháu Nguyễn Thị Diệu M, sinh ngày 01-11-2002 ngụ Ấp M1, xã M2, huyện M3, tỉnh Đồng Tháp (là con anh Th) đang ngủ cùng cháu Nguyễn Minh V4, sinh năm 2012. S nảy sinh ý định hiếp dâm cháu M nên lấy con dao trên kệ gỗ gần chỗ M ngủ, S leo lên giường nằm ôm cháu M, cháu M la lên “Tía ơi”, S kè dao vào cổ M kêu im lặng nếu la thì giết; M sợ nằm im, S bỏ dao dưới chân cháu M rồi cởi quần và quần lót, vén áo cháu M lên rồi thực hiện hành vi giao cấu với M xong; S điện thoại cho T đến chở S qua Campuchia. S đưa 02 điện thoại cho T đem bán được 1.500.000 đồng, S lấy 1.000.000 đồng và cho T 500.000 đồng, cả hai dùng vào đánh bạc thua hết.
- Kết luận pháp y về tình dục số: 57/2017/TD ngày 23-8-2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Tây Ninh kết luận: Nguyễn Thị Diệu M, màng trinh rách mới có dấu rỉ máu, sâu tới chân màng trinh vị trí 5 giờ và rách mới không tới màng trinh vị trí 3 giờ, hiện tại không phát hiện có thai.
- Kết luận giám định pháp y về độ tuổi số: 3238/C45B ngày 27-9-2017 của Phân viện khoa học hình sự Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Thời điểm giám định (tháng 9-2017) Nguyễn Thị Diệu M, có độ tuổi từ 14 năm 09 tháng đến 15 năm 03 tháng.
- Kết luận giám định số: 2749/C45B ngày 08-11-2017 của Phân viện khoa học hình sự Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Kiểu gen của Lâm Văn S, trùng với kiểu gen của mẫu tinh trùng trong mẫu dịch âm đạo và trên chiếc quần lót của Nguyễn Thị Diệu M (đã phân tích được theo Quyết định trưng cầu giám định số: 164/QĐ ngày 27-8-2017 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện E3, tỉnh Tây Ninh).
- Kết luận giám định tài sản số: 07 ngày 15-12-2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện E3, tỉnh Tây Ninh kết luận:
+ 01 điện thoại di động hiệu Oppo Neo7 tại thời điểm ngày 23-8-2017 có giá 1.000.000 đồng.
+ 01 điện thoại hiệu Iphone 5S 16GB tại thời điểm ngày 23-8-2017 có giá 2.700.000 đồng.
Tổng cộng 3.700.000 đồng.
Lần thứ hai: Vào ngày 03-10-2017, S và T đánh bạc ở Casino 7 tầng Campuchia thua hết tiền, S tiếp tục rủ T về Việt Nam trộm tài sản. T đồng ý chở S về Việt Nam đến khu vực Ấp Y1, xã Y2, thành phố Y3, tỉnh Tây Ninh để trộm cắp tài sản. Lúc này khoảng 04 giờ ngày 04-10-2017, S kêu T dừng xe lại S xuống xe, T đưa nón len cho S đội trùm mặt còn T chạy xe đi nơi khác chờ, S vào nhà Nguyễn Thị Y, ngụ ấp Y1, xã Y2, thành phố Y3 thấy cửa trước không đóng nên S vào nhà chỉ có chị Y cùng hai con nhỏ. S vào phòng ngủ chị Y lấy trộm số tiền 6.700.000 đồng.
Khi lấy tiền xong, S nảy sinh ý định hiếp dâm chị Y, S cởi quần áo của mình để ngoài cửa trước rồi vào nhà bếp lấy 01 con dao, 01 cây kéo rồi lên phòng ngủ của chị Y lúc này chị Y đã thức dậy; S dùng dao kè vào cổ chị Y kêu im lặng nếu la thì sẽ giết, chị Y nằm không phản ứng. S để dao gần giường, tay cởi quần chị Y rồi thực hiện hành vi giao cấu, khi giao cấu chị Y nói “Tao thấy mày quen, tao biết mày là ai” S sợ nên không thực hiện hành vi giao cấu, bỏ chạy ra khỏi nhà rồi điện thoại cho T đến đón. Khi T đến đón, S nói dối với T hôm nay không lấy trộm được gì hết và kêu T chở qua Casino 7 tầng Campuchia dùng tiền trộm được đánh bài thua hết.
- Kết luận pháp y về tình dục số: 67/2017/TD ngày 04-10-2017 của Trung tâm pháp y tỉnh Tây Ninh kết luận: Nguyễn Thị R Y, màng trinh rách cũ nhiều chỗ, hiện tại không phát hiện có thai.
- Kết luận giám định số: 3401/C45B ngày 10-11-2017 của Phân viện khoa học hình sự Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh:
+ Không phát hiện tinh trùng dính trên miếng vải màu trắng có hoa văn màu xanh; miếng vải màu đỏ thu tại hiện trường và trên mẫu dịch âm đạo ghi thu của Nguyễn Thị Y.
+ 02 sợi lông ghi thu tại hiện trường là lông người, không phân tích được kiểu gen đầy đủ từ hai sợi lông này nên không truy nguyên được cá thể.
+ Dấu vết dính trên miếng vải màu trắng có hoa văn màu xanh là máu người. Phân tích ADN từ mẫu máu này được một kiểu gen hoàn chỉnh của một nam giới và không trùng kiểu gen của Bùi Văn V3.
+ Trên miếng vải màu đỏ thu tại hiện trường có dính tế bào người. Phân tích ADN từ mẫu tế bào này được một kiểu gen hoàn chỉnh của một nam giới và không trùng với gen của Bùi Văn V3 (V3 và Y có quan hệ huyết thống cha - mẹ con với nam giới này).
- Kết luận giám định số: 151/C45B ngày 09-3-2018 của Phân viện khoa học hình sự Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh: Lâm Văn S có kiểu gen trùng với kiểu gen của nam giới có trong Bản kết luận giám định số: 3401/C45B ngày 10-11-2017 của Phân viện khoa học hình sự Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Lần thứ ba: Vào ngày 20-10-2017, sau khi đánh bạc ở Casino 7 tầng tại Campuchia thua hết tiền, S rủ T về Việt Nam đi trộm tài sản cũng như lần trước. T điều khiển xe Dream chở S đến khu vực ấp E1, xã E2, huyện E3, T dừng xe. S xuống đi bộ chỉ mặc quần lót đội nón len đi trong vườn cao su đột nhập vào nhà của Lê Quang Tr, ấp E1, xã E2, huyện E3 (do nhà ông Trung không khóa cửa trước) S vào nhà lấy trộm 01 điện thoại hiệu Samsung Galaxy S và 01 điện thoại Oppo A37.
Sau khi trộm xong, S tiếp tục vào nhà Lê Quang Ng, lấy trộm một điện thoại Oppo A39, lục soát tủ quần áo của Nguyên, trong bóp da có giấy chứng minh nhân dân của Ng và số tiền 150.000 đồng.
S tiếp tục vào nhà của bà Hồ Thị E, lấy trộm số tiền 90.000 đồng.
S tiếp tục lấy 01 cây rựa rồi vào nhà Nguyễn Thị Ch, lục soát tài sản không có, S thấy Ch đang ngủ nên dùng rựa kè cổ và nói nằm im nếu la thì giết. Sau đó, S cởi quần chị Ch rồi tiến hành giao cấu (tất cả hai lần), xong S điện cho T đến đón và chở S qua Campuchia đánh bạc. Khi qua Campuchia S đưa cho T điện thoại bán được
2.500.000 đồng, S lấy 1.500.000 đồng và đưa cho T 1.000.000 đồng; cả hai đánh bạc thua hết.
- Kết luận pháp y về tình dục số: 71/2017/TD ngày 20-10-2017 của Trung tâm y tế tỉnh Tây Ninh kết luận: Nguyễn Thị Ch, sinh năm 1993 màng trinh rách cũ vị trí 6 giờ, 10 giờ, 11 giờ. Hiện tại không phát hiện có thai.
- Kết luận số: 3780/C45B ngày 26-12-2017 của Phân Viện khoa học hình sự Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:
+ Trên miếng gra nệm sọc carô màu xanh - vàng tại vị trí (1) phân tích được kiểu gen ADN của Nguyễn Thị Ch.
+ Mẫu ghi thu dịch âm đạo của Nguyễn Thị Ch có lẫn nhiều kiểu gen không truy nguyên được cá thể.
+ Trên quần lót của Nguyễn Thị Ch phân tích được ADN của Nguyễn Thị Ch và ADN của Võ Thành V1 (là chồng của Ch).
+ Mẫu gồm 17 sợi màu đen ghi thu vị trí (1) là lông và tóc người. Trong đó các mẫu lông đánh số 9, 10, 11, 12 phân tích được kiểu gen hoàn chỉnh, trùng với kiểu gen đối tượng Lâm Văn S (sinh năm 1988). Các mẫu còn lại đánh số 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 13, 14, 15, 16, 17 là lông và tóc người không phân tích được kiểu gen hoàn chỉnh.
- Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số: 05 ngày 22-12-2017 của Hội đồng định giá huyện E3, tỉnh Tây Ninh kết luận:
+ 01 điện thoại di động Oppo A37 tại thời điểm ngày 20-10-2017, trị giá 1.800.000 đồng.
+ 01 điện thoại di động Samsung Galaxy S màu đen tại thời điểm ngày 20-10- 2017 trị giá 300.000 đồng.
Tổng cộng là 2.100.000 đồng.
Lần thứ tư: Vào ngày 22-10-2017, sau khi đánh bạc thua hết tiền S rủ T về Việt Nam đi trộm cắp tài sản. Lần này không có xe, S và T đón xe buýt về nhà ở xã T1, huyện T2, tỉnh Tây Ninh; đến khoảng 21 giờ cùng ngày, S điện cho T đi trộm cắp tài sản, S lấy xe mô-tô biển số 70E1-248.60 của chị Lâm Thị Bé A (chung sống như vợ chồng với S), ngụ ấp E1, xã E2, huyện E3, tỉnh Tây Ninh đến đón T. S giao xe cho T chở S đến khu vực ấp S1, xã S2, huyện S3, tỉnh Tây Ninh (gần đến cầu sắt) S kêu T dừng lại. S xuống xe cởi quần áo chỉ mặc quần sọt, đội nón len đột nhập vào nhà của Nguyễn Thị R, ấp S1, xã S2, huyện S3, tỉnh Tây Ninh. S lục soát không thấy tài sản, S thấy chị R đeo sợi dây vàng 18 K, trọng lượng khoảng 2 chỉ nên S ra nhà sau lấy dao và kéo lên khống chế chị R để lấy vàng, khi S kè dao thì chị R thức dậy theo phản xạ dùng hai tay chụp dao của S tri hô lên S buông dao rồi bỏ chạy, rớt lại nắp điện thoại.
S đến nhà ông Mai Văn K1 (cùng địa phương với chị R), S vào trong nhà thấy Mai Thị Mỹ K, sinh ngày 15-11-2001 (là con anh K1) đang ngủ trong phòng. S nảy sinh ý định giao cấu với K nên xuống nhà sau lấy 01 cây rựa và 01 cây kéo rồi vào chỗ K ngủ, dùng kéo định cắt ống quần thì K giật mình thức dậy; S kề rựa vào cổ K và nói nếu la lên thì giết; S cởi áo của K ra, K nói đau bụng xin đi vệ sinh; S đưa K ra nhà vệ sinh, K ngồi lâu để kéo dài thời gian. Lúc này mẹ của K là bà Nguyễn Thị Ngọc K2 thức dậy chuẩn bị đi cạo mủ cao su, phát hiện có người lạ nên la lên, S cầm rựa bỏ chạy và rớt lại cái điện thoại di động. Trên đường chạy trốn, S vứt cây rựa vào vườn cao su rồi điện thoại cho T đến đón S. S nói hôm nay không trộm được gì, T giao xe cho S rồi đón xe buýt về nhà còn S ở lại khu vực xã S2, huyện S3, tỉnh Tây Ninh chơi.
Lần thứ năm: Vào khoảng 21 giờ ngày 23-10-2017 cũng như các lần trước T cùng S đến khu vực xã Y2, thành phố Y3, tỉnh Tây Ninh. T điều khiển xe mô-tô biển số 70E1-28460 chở S đến ấp Qu1, xã Qu2, thành phố Y3, tỉnh Tây Ninh, S xuống xe cởi áo, quần giao cho T giữ. T chạy xe đi nơi khác khi nào S trộm xong thì điện T đến đón. S mặc quần lót và đội nón len bao phủ mặt, vào nhà Nguyễn Thị Qu, ngụ Ấp Qu1, xã Qu2, thành phố Y3, S xuống nhà phía sau lấy 01 dao yếm và 02 cây kéo rồi quay lên phòng của Qu đang ngủ cùng con nhỏ. S lấy 01 điện thoại Nokia OPPO A93 và một điện thoại Nokia 1280 đang sạc trong phòng ngủ và lấy 20.000.000 đồng. Xong S thấy chị Qu đeo 13 chiếc vòng Simen trọng lượng 06 chỉ 3 li vàng 18 K nên S dùng dao và kéo khống chế chị Qu lấy hết số vàng trên. S cầm dao và kéo đi ra ngoài.
Khi đi ngang qua nhà ông Lê Ngọc G (ở gần nhà chị Qu), S lấy trộm 01 quần sọt carô trắng đen, 01 áo sơ mi ngắn tay màu xám và 01 đôi dép nhựa.
S qua nhà Nguyễn Thị U, sinh năm 1990, ngụ Ấp G4, xã G5, thành phố G6. S leo rào vào trong nhà thấy chịU đang ngủ cùng hai con nhỏ. S thấy trên người U có đeo 02 chỉ vàng 18 K, S dùng dao khống chế chịU để lấy vàng,U chống trả dùng tay chụp được cán dao và la lên, S buông dao rồi bỏ chạy để lại quần, áo, dép, con dao và điện thoại Nokia OPPO mới lấy được nhà chị Qu kéo và đôi dép phía sau nhà chị U. S dùng điện thoại Nokia 1280 (lấy nhà chị Qu) điện thoại cho T đến rước S. Khi T đến S nói trộm 20.000.000 đồng, đưa T 14.000.000 đồng để T qua Campuchia chuộc lại xe mô- tô, vàng, điện thoại S và T đã thế bên Casino; còn số vàng chiếm đoạt được, S không nói cho T biết. Đến 17 giờ ngày 24-10-2017 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Y3 bắt S và T.
Tại bản Cáo trạng số: 15/CT-VKSTN-P2, ngày 31 tháng 5 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh đã truy tố:
+ Bị cáo Lâm Văn S về tội “Hiếp dâm, Hiếp dâm trẻ em, Cướp tài sản và Trộm cắp tài sản” theo điểm d, đ, i khoản 2 Điều 141; điểm đ, e, g khoản 2 Điều 142; điểm a, b, h khoản 2 Điều 168; điểm a, b, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
+ Bị cáo Lê Minh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a, b, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố.
Tại phiên tòa, sau khi đọc xong bản cáo trạng, Kiểm sát viên đã rút lại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lê Minh T (vì bị cáo T chỉ là tái phạm chứ không phải tái phạm nguy hiểm) và trong phần tranh luận Kiểm sát viên đề nghị:
+ Căn cứ vào điểm d, đ, i khoản 2 Điều 141; điểm đ, e , g khoản 2 Điều 142; điểm a, b, h khoản 2 Điều 168; điểm a, b, g khoản 2 Điều 173; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm b khoản 1 Điều 52; Điều 55, 58 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Lâm Văn S từ 10 - 12 năm tù về tội “Hiếp dâm”; từ 14 – 16 năm tù về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”; từ 08 – 10 năm tù về tội “Cướp tài sản”; từ 04
– 05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung cho cả 04 tội là 30 năm tù.
+ Căn cứ vào điểm a, b khoản 2 Điều 173; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Lê Minh T từ 04 – 05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
+ Căn cứ vào khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 587, 589, 592 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Buộc các bị cáo bồi thường các khoản thiệt hại cho những bị hại và xử lý vật chứng theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo S trình bày: Đồng tình với cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh đã truy tố bị cáo S về 04 tội danh “Hiếp dâm, Hiếp dâm người dưới 16 tuổi, Cướp tài sản, Trộm cắp tài sản” và viện dẫn điều luật áp dụng tương ứng là đúng. Luật sư chỉ nêu ra về nguyên nhân, điều kiện dẫn đến bị cáo Sphạm tội: Bị cáo S là dân tộc Tà Mun, học vấn thấp, vì muốn có tiền tiêu xài nên phạm tội trộm cắp, bị cáo đã ăn năn hối cải nên đã thành khẩn khai báo và tự khai ra các lần phạm tội trước đó; đề nghị hội đồng xét xử xem xét áp dụng thêm các điểm điểm r, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 để xem xét giảm nhẹ một phần mức án cho bị cáo.
Tại phiên tòa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại Nguyễn Thị Diệu M trình bày: Bị Cáo Lâm Văn S thực hiện nhiều tội phạm trong đó có tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi và bị cáo có nhiều tình tiết định khung tăng nặng, nhân thân xấu nên đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt nghiêm minh đồng thời xem xét buộc bị cáo Sphải bồi thường cho bị hại Huê số tiền tổn thất tinh thần theo đúng quy định của pháp luật.
Các bị cáo không tranh luận.
Lời nói sau cùng của các bị cáo:
+ Bị cáo Lâm Văn S: Bị cáo đã ăn năn hối cải nên đã thành khẩn khai báo, xin mức án nhẹ để sớm trở về sum họp gia đình.
+ Bị cáo Lê Thanh T: Bị cáo đã thấy được sai trái của mình, xin được giảm nhẹ để sớm trở về gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Tây Ninh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Luật sư bào chữa cho bị cáo Svà các bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa hôm nay hai bị cáo Lâm Văn S và Lê Thanh T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh đã truy tố. Xét lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ, có cơ sở xác định: Do đam mê cờ bạc Lâm Văn Svà Lê Minh Tthường xuyên qua Casino Campuchia đánh bạc thua hết tiền nên S bàn bạc với T về Việt Nam trộm cắp tài sản; theo đó T giữ vai trò giúp sức trong việc đưa đón S đi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản xong đem về bán chia nhau tiêu xài.
[3] Trong khoảng thời gian từ ngày 23-8-2017 đến 24-10-2017:
3.1. Lâm Văn S cấu kết cùng Lê Minh T đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản nhiều lần (trong đó có đêm thực hiện liên tiếp nhiều lần, đối với nhiều nhà khác nhau) trên địa bàn huyện E3, huyện L3 và thành phố Y3: Nhà bà Nguyễn Thị C, ngụ ấp L1, xã L2, huyện L3; nhà chị Nguyễn Thị R Y, ngụ ấp Y1, xã Y2, thành phố Y3; nhà anh Lê Quang Tr, Lê Quang Ng, bà Hồ Thị E cùng ngụ ấp E1, xã E2, huyện E3; nhà chị Nguyễn Thị Qu ngụ Ấp Qu1, xã Qu2, thành phố Y3 và nhà ông Lê Ngọc G, ngụ ấp G4, xã G5, thành phố G6; tổng cộng 7 nhà bị hại.
3.2. Lâm Văn S trong khi thực hiện hành vi trộm cắp còn có hành vi thái quá để cướp tài sản của nhiều bị hại như: Dùng dao và kéo khống chế chị Nguyễn Thị R, ngụ ấp S1, xã S2, huyện S3 nhưng do bị hại chống cự nên không lấy được tài sản (phạm tội chưa đạt); dùng 01 con dao yếm và 02 cây kéo khống chế chị Nguyễn Thị Qu, ngụ ấp Qu1, xã Qu2, thành phố Y3 chiếm đoạt 13 chiếc vòng xi-men, trọng lượng 6 chỉ, 03 ly, vàng 18 K; dùng dao khống chế chị Nguyễn Thị U, ngụ ấp G4, xã G5, thành phố G6 định chiếm đoạt 02 chỉ vàng 18 K nhưng do bị hại chống cự nên không lấy được tài sản (phạm tội chưa đạt).
3.3. Tổng số tiền trộm và cướp được là 52.634.850 đồng.
3.4. Lâm Văn S ngoài hành vi trộm cắp và cướp tài sản nêu trên còn có hành vi thái quá như dùng vũ lực khống chế nhiều bị hại để tiến hành giao cấu với họ, gồm: Hiếp dâm người dưới 16 tuổi, đối với em Nguyễn Thị Diệu M, sinh ngày 01-11-2002 và em Mai Thị Mỹ K, sinh ngày 15-11-2001 (phạm tội chưa đạt); Hiếp dâm đối với chị Nguyễn Thị Y và chị Nguyễn Thị Ch.
[4] Như vậy, có đủ cơ sở xác định:
+ Bị cáo Lâm Văn S phạm tội “Hiếp dâm, Hiếp dâm người dưới 16 tuổi, Cướp tài sản và Trộm cắp tài sản” theo điểm d, đ, i khoản 2 Điều 141; điểm đ, e , g khoản 2 Điều 142; điểm a, b, h khoản 2 Điều 168; điểm a, b, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)
+ Bị cáo Lê Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a, b khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[5] Vụ án mang tính chất đặc biệt nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; trong khoảng thời gian 2 tháng, hai bị cáo đã cấu kết với nhau liên tục thực hiện 07 lần trộm của các bị hại: Nguyễn Văn L, Nguyễn Thị Quỳnh N, Nguyễn Thị R Y, Lê Quang Tr, Lê Quang Ng, Hồ Thị E, Nguyễn Thị Qu, Lê Ngọc G. Riêng bị cáo Sdo thái quá thực hiện 03 lần cướp đối với 03 bị hại, gồm: Nguyễn Thị R, Nguyễn Thị Qu, Nguyễn Thị U trong đó có 02 lần phạm tội chưa đạt; bị cáo Sdo thái quá đã thực hiện hành vi hiếp dâm người dưới 16 tuổi đối với 02 bị hại là: Nguyễn Thị Diệu M, Mai Thị Mỹ K và thực hiện hành vi hiếp dâm đối với 02 bị hại là: Nguyễn Thị Y, Nguyễn Thị Ch. Hành vi phạm tội của các bị cáo có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, phạm tội 02 lần trở lên, đối với hai người trở lên, tài sản chiếm đoạt tổng cộng 52.634.850 đồng đến nay chưa bồi thường; đã xâm phạm đến quyền sở hữu chính đáng của nhiều công dân, xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của nhiều phụ nữ trong đó đặc biệt là người dưới 16 tuổi, làm ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của các em cũng như ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm tư, tình cảm, tương lai và hạnh phúc sau này của họ nên cần nghiêm trị.
[6] Xét tính chất và mức độ phạm tội của từng bị cáo:
[7] Lâm Văn S: Là kẻ có 03 tiền án chưa được xóa án tích, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Bị cáo là kẻ chủ mưu trong vụ án, trực tiếp rủ bị cáo T cùng tham gia thực hiện tội trộm cắp tài sản (07 lần) và là người trực tiếp chiếm đoạt tài sản trong tất cả các lần trộm cũng như cướp. Trong lúc thực hiện tội trộm lại có hành vi thái quá như cướp 03 lần, 02 lần hiếp dâm và 02 lần hiếp dâm người dưới 16 tuổi. Tiền chiếm đoạt được cũng hưởng nhiều hơn bị cáo T nên bị cáo phải chịu mức án cao nhất trong đồng phạm.
[8] Lê Minh T: Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số: 114/2008/HSST ngày 31-7-2008 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh đã áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136; điểm b, p khoản 1 Điều 46; Điều 47 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Lê Minh T04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28-01-2008; đến nay chưa được xóa án tích. Lần phạm tội này bị cáo chỉ thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm nghiêm trọng (khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự hiện hành có khung hình phạt từ 02 năm đến 07 năm tù); theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 53 của Bộ luật Hình sự thì bị cáo thuộc trường hợp tái phạm chứ không phải tái phạm nguy hiểm. Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh truy tố bị cáo T theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là không đúng, do đó Hội đồng xét xử chỉ áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) mới chính xác. Trong vụ án này, bị cáo T được bị cáo Srủ rê tham gia vào vụ án, giữ vai trò là người giúp sức tích cực trong các lần thực hiện tội phạm trộm cắp tài sản. Bị cáo đã có hành vi trực tiếp mua nón bịt mặt để cho bị cáo Sdùng vào việc trộm cắp và trong tất cả các lần trộm cắp của các bị hại như: Nguyễn Văn L, Nguyễn Thị Quỳnh N, Nguyễn Thị R Y, Lê Quang Tr, Lê Quang Ng, Hồ Thị E, Nguyễn Thị Qu, Lê Ngọc G thì chính bị cáo là người trực tiếp điều khiển xe mô-tô chở và rước bị cáo Strong các lần trộm; được S giao tài sản trộm được để đi bán hoặc để chuộc lại tài sản đã thế chấp. Do bị cáo là kẻ tái phạm nên phải áp dụng tình tiết tăng nặng theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Mức độ phạm tội của bị cáo thấp hơn bị cáo S.
[9] Khi quyết định hình phạt có xem xét: Cả hai bị cáo đều thành khẩn khai báo và tự thú khai ra các lần phạm tội trước đó; riêng bị cáo Sphạm tội chưa đạt (02 lần cướp: bị hại Nguyễn Thị R + Nguyễn Thị U) và phạm tội chưa đạt đối với lần hiếp dâm người dưới 16 tuổi (bị hại Mai Thị Mỹ K). Ngoài ra, tại phiên tòa bị cáo Skhai rằng bị cáo là người dân tộc Tà Mun nhưng hiện tại dân tộc này không có tên trong 54 dân tộc Việt Nam, nên không được Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[10] Các biện pháp tư pháp: Căn cứ vào khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 587, 589, 592 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
[11] Buộc hai bị cáo Lâm Văn Svà Lê Minh Tphải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho:
11.1. Bị hại Nguyễn Thị Qu: 15.050.000 đồng; trong đó mỗi bị cáo phải chịu ½ là 7.525.000 đồng.
Ghi nhận chị Nguyễn Thị Qu đã nhận lại 01 điện thoại di động hiệu Oppo + 13 vòng xi-men + 01 con dao + 01 cây kéo + 4.850.000 đồng. 11.2. Bị hại Lê Quang Ng: 150.000 đồng tiền bị chiếm đoạt và 2.400.000 đồng (trị giá 01 điện thoại di động hiệu Oppo A39); tổng cộng 2 khoản là 2.550.000 đồng; trong đó mỗi bị cáo phải chịu ½ là 1.275.000 đồng.
Ghi nhận anh Lê Quang Ng đã nhận lại 01 Giấy chứng minh nhân dân. 11.3. Bị hại Lê Quang Tr: 3.290.000 đồng (trị giá 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy. S và 01 điện thoại di động hiệu Oppo A37); trong đó mỗi bị cáo phải chịu ½ là 1.645.000 đồng.
11.4. Bị hại Nguyễn Thị Quỳnh N: 1.000.000 đồng (01 điện thoại Oppo Neo 7); trong đó bị cáo Sphải chịu 2/3 là 667.000 đồng; bị cáo T phải chịu 1/3 là 333.000 đồng.
11.5. Bị hại Nguyễn Văn L: 2.700.000 đồng (trị giá 01 điện thoại Iphone 5S); trong đó bị cáo Sphải chịu 2/3 là 1.800.000 đồng; bị cáo T phải chịu 1/3 là 900.000 đồng.
11.6. Ghi nhận bị hại Lê Ngọc G không yêu cầu các bị cáo bồi thường. [12] Buộc bị cáo Lâm Văn S phải có trách nhiệm bồi thường cho:
12.1. Bị hại Nguyễn Thị Diệu M: Tiền tổn thất tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm 10 tháng lương cơ sở, mỗi tháng là 1.390.000 đồng/tháng = 13.900.000 đồng;
12.2. Bị hại Nguyễn Thị Y: 6.700.000 đồng tiền bị chiếm đoạt và tiền tổn thất tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm 10 tháng lương cơ sở, mỗi tháng là 1.390.000 đồng/tháng = 13.900.000 đồng; cộng hai khoản là 20.600.000 đồng;
12.3. Bị hại Nguyễn Thị Ch: Tiền tổn thất tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm 10 tháng lương cơ sở, mỗi tháng là 1.390.000 đồng/tháng = 13.900.000 đồng.
12.4. Tổng cộng bị cáo S phải có trách nhiệm bồi thường là: 61.312.000 đồng; tổng cộng bị cáo T phải có trách nhiệm bồi thường là: 11.678.000 đồng.
[13] Về xử lý vật chứng:
+ Đối với 01 xe mô-tô nhãn hiệu Honda Wave màu trắng, biển số 70E1-284.60, số khung 041384, số máy 7041451, thu của bị cáo S. Theo lời khai của chị Lâm Thị Bé A (là người chung sống như vợ chồng với bị cáo S, không có đăng ký kết hôn), thì chiếc xe này do chị bỏ tiền ra mua, vào năm 2017 với giá 13 triệu đồng, có làm giấy tay nhưng bị thất lạc. Theo bị cáo Sthì chiếc xe này là của chị A bị cáo mượn sử dụng, lúc bị bắt Công an có thu giữ Giấy chứng nhận đăng ký xe mô-tô do anh Nguyễn Thành V đứng tên (trong hộc xe). Nguồn gốc chủ sở hữu chiếc xe này là của anh Nguyễn Thành V đứng tên Giấy chứng nhận đăng ký xe mô-tô (BL 1163, 1164) nhưng sau này đã bán lại cho người khác ở huyện Tân Biên, có làm giấy tay nhưng không rõ địa chỉ cụ thể. Như vậy, có cơ sở kết luận xe mô-tô nhãn hiệu Honda Wave màu trắng, biển số 70E1- 284.60 là do chị A mua hợp pháp, nên cần trả lại cho chị A quản lý, sử dụng.
+ Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu xanh đen, số Imei: 301014152186596 (thu của bị cáo T) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 216 màu đen, số Imei 1: 357307083684801, số Imei 2: 357307083684819 (thu của bị cáo S), xét thấy đây là phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.
+ Đối với số tiền 70.000 đồng (thu của bị cáo S), cần tạm giữ để bảo đảm việc thi hành án.
+ Trả cho bị cáo T 01 hộ chiếu số C2706810.
+ Đối với các tài sản khác không có giá trị sử dụng như: Quần, áo, dép, kéo, nón len, đèn pin, bóp da, biển số xe, dao, rựa cần tịch thu tiêu hủy. Hội đồng xét xử sẽ tuyên cụ thể ở phần quyết định.
[14] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại Huê; chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
[15] Theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; do bị kết án nên mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và tiền án phí dân sự sơ thẩm, cụ thể được tính như sau:
+ Bị cáo S phải chịu: 61.312.000 đồng X 5% = 3.065.600 đồng.
+ Bị cáo T phải chịu: 11.678.000 đồng X 5% = 583.900 đồng. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm d, đ, i khoản 2 Điều 141; điểm đ, e, g khoản 2 Điều 142; điểm a, b, h khoản 2 Điều 168; điểm a, b, g khoản 2 Điều 173; điểm r, s khoản 1 Điều 51; Điều 38, 55, 57, 58 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Lâm Văn S 10 (mười) năm tù về tội “Hiếp dâm”; 14 (mười bốn) năm tù về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”; 08 (tám) năm tù về tội “Cướp tài sản”; 05 (năm) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt cả 04 tội là 30 (ba mươi) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 24-10-2017.
2. Căn cứ vào điểm a, b khoản 2 Điều 173; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Lê Minh T 04 (bốn) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 24-10-2017.
3. Các biện pháp tư pháp: Căn cứ vào khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 587, 589, 592 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Buộc hai bị cáo Lâm Văn Svà Lê Minh Tphải có trách nhiệm liên đới bồi thường cho:
4.1. Bị hại Nguyễn Thị Qu: 15.050.000 đồng; trong đó mỗi bị cáo phải chịu ½ là 7.525.000 (bảy triệu, năm trăm hai mươi lăm nghìn) đồng. Ghi nhận chị Nguyễn Thị Qu đã nhận lại 01 điện thoại di động hiệu Oppo + 13 vòng xi-men + 01 con dao + 01 cây kéo + 4.850.000 đồng.
4.2. Bị hại Lê Quang Ng: 150.000 đồng tiền bị chiếm đoạt và 2.400.000 đồng (trị giá 01 điện thoại di động hiệu Oppo A39); tổng cộng 2 khoản là 2.550.000 đồng; trong đó mỗi bị cáo phải chịu ½ là 1.275.000 (một triệu, hai trăm bảy mươi lăm nghìn) đồng. Ghi nhận anh Lê Quang Ng đã nhận lại 01 Giấy chứng minh nhân dân.
4.3. Bị hại Lê Quang Tr: 3.290.000 đồng (trị giá 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy. S và 01 điện thoại di động hiệu Oppo A37); trong đó mỗi bị cáo phải chịu ½ là 1.645.000 (một triệu, sáu trăm bốn mươi lăm nghìn) đồng.
4.4. Bị hại Nguyễn Thị Quỳnh N: 1.000.000 đồng (01 điện thoại Oppo Neo 7); trong đó bị cáo Sphải chịu 2/3 là 667.000 (sáu trăm sáu mươi bảy nghìn) đồng; bị cáo T phải chịu 1/3 là 333.000 (ba trăm ba mươi ba nghìn) đồng.
4.5. Bị hại Nguyễn Văn L: 2.700.000 đồng (trị giá 01 điện thoại Iphone 5S); trong đó bị cáo Sphải chịu 2/3 là 1.800.000 (một triệu, tám trăm nghìn) đồng; bị cáo T phải chịu 1/3 là 900.000 (chín trăm nghìn) đồng.
4.6. Ghi nhận bị hại Lê Ngọc G không yêu cầu các bị cáo bồi thường.
5. Buộc bị cáo Lâm Văn S phải có trách nhiệm bồi thường cho:
5.1. Bị hại Nguyễn Thị Diệu M: Tiền tổn thất tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm 10 tháng lương cơ sở, mỗi tháng là 1.390.000 đồng/tháng = 13.900.000 (mười ba triệu, chín trăm nghìn) đồng;
5.2. Bị hại Nguyễn Thị Y: 6.700.000 đồng tiền bị chiếm đoạt và 13.900.000 đồng tiền tổn thất tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm; cộng hai khoản là 20.600.000 (hai mươi triệu, sáu trăm nghìn) đồng;
5.3. Bị hại Nguyễn Thị Ch: Tiền tổn thất tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm 10 tháng lương cơ sở, mỗi tháng là 1.390.000 đồng/tháng = 13.900.000 (mười ba triệu, chín trăm nghìn) đồng.
6. Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không chịu trả số tiền nêu trên, thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải trả cho người được thi hành án số tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
7. Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
7.1. Trả cho chị Lâm Thị Bé A 01 xe mô-tô, nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, biển số 70E1-284.60, số khung 041384, số máy 7041451.
7.2. Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước các tài sản sau: 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Masstel màu xanh đen, số Imei: 301014152186596 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 216 màu đen, số Imei 1: 357307083684801, số Imei 2: 357307083684819.
7.3. Tạm giữ của bị cáo Ssố tiền 70.000 (bảy mươi nghìn) đồng để bảo đảm việc thi hành án.
7.4. Trả cho bị cáo T 01 hộ chiếu số C2706810.
7.5. Tịch thu, tiêu hủy những vật chứng sau:
- 01 (một) quần sọt, sọc karo màu trắng đen;
- 01 (một) áo sơ mi, ngắn tay, màu xám;
- 02 (hai) chiếc dép, màu đỏ;
- 01 (một) cây kéo, cán màu vàng;
- 01 (một) nón len, loại trùm đầu, che mặt, màu đen;
- 01 (một) đèn pin, màu nâu, loại đeo trên đầu;
- 01 (một) bóp da, màu nâu;
- 01 (một) biển số xe 83P-24743;
- 01 (một) cây dao, dài 40 cm, cán bằng gỗ dài 12,5 cm, lưỡi bằng kim loại dài 27,5 cm;
- 01 (một) cây kéo, trên lưỡi kéo có chữ KIM LONG;
- 01 (một) áo thun ngắn tay, màu đen SHARBEI hình con chó;- 01 (một) quần đùi, vải có hoa văn bông đỏ - vàng -đen;
- 01 (một) quần thun, màu đen - đỏ hiệu Puma;
- 01 (một) cây rựa, dài 45 cm, cán bằng gỗ dài 15 cm, đường kính 2,8 cm, lưỡi bằng kim loại dài 30 cm, nơi rộng nhất 8 cm, nhỏ nhất 2 cm;
- 01 (một) áo ngực màu hồng,
- 01 (một) áo thun màu xanh;
- 01 (một) quần dài đen.
(Hiện Cục Thi hành án dân sự tỉnh Tây Ninh đang giữ theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 07-6-2018)
8. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016 ngày 30-12-2016 của UBTVQH về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án:
+ Bị cáo S phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 3.065.600 (ba triệu, không trăm sáu mươi lăm nghìn, sáu trăm) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
+ Bị cáo T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 583.900 (năm trăm tám mươi ba nghìn chín trăm) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
9. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
10. Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, báo cho các bên biết có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Riêng các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án 25/2018/HS-ST ngày 25/07/2018 về tội hiếp dâm, hiếp dâm người dưới 16 tuổi, cướp tài sản, trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 25/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/07/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về