TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 251/2020/HSPT NGÀY 25/05/2020 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 25 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 142/2020/HSPT ngày 01/4/2020 đối với bị cáo Nguyễn Dũ L, do có kháng cáo của bị cáo và Luật sư bào chữa cho bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2020/HS-ST ngày 20/02/2020 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị cáo có kháng cáo:
NGUYỄN DŨ L; giới tính: Nam; sinh ngày 08 tháng 12 năm 2001; nơi sinh: tại Kiên Giang; thường trú: Ấp TT, xã TH, huyện TH, tỉnh Kiên Giang; tạm trú: khu phố A, phường HBP, quận Đ, Tp.Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 06/12; nghề nghiệp: Không; con ông NVC và bà PTH; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; tạm giam ngày 11/7/2019 (Có mặt).
Luật sư có kháng cáo: Luật sư Nguyễn Hữu Thục - bào chữa cho bị cáo Nguyễn Dũ L tại phiên tòa sơ thẩm (Có mặt).
Ngoài ra có bị cáo Lê Phúc K, Nguyễn Văn N, bị hại là ông Vũ Phước H và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Sau khi nhậu xong tại nhà anh Trần Quốc T tại đường NCQ, khu phố B, phường BC, quận Đ, Thành phố Hồ Chí Minh, khoảng 01 giờ ngày 03/3/2019, Nguyễn Dũ L lấy xe mô tô biển số xxxxxxx chở Nguyễn Văn N và Lê Phúc K về. Trên đường về nhà của N, K rủ Lvà N đến bờ kè CH thuộc khu phố B, phường BC, quận Đ để cướp tài sản của người khác lấy tiền tiêu xài, N và L đồng ý. L điều khiển xe mô tô biển số xxxxxx dừng lại gần nhà N tại địa chỉ đường Z, khu phố B, phường BC, quận Đ để N vào nhà lấy 01 con dao rựa, dài khoảng 01m, lưỡi bằng kim loại dài khoảng 30 cm. Sau đó, L điều khiển xe mô tô chở K và N đến trước địa chỉ W, khu phố B, phường BC, quận Đ thì dừng lại đứng chờ. Khoảng 02 giờ 30 phút cùng ngày, K và N phát hiện anh Vũ Phước H đang điều khiển xe mô tô biển số 77H1-3215 đi tới. Lập tức K và N chặn đầu xe mô tô của anh H, L ngồi trên xe cảnh giới. N cầm giao chỉ thẳng vào ngực anh H để khống chế, K nói với anh H “Có bao nhiêu tiền thì móc hết ra đây”. Anh H sợ hãi nên liền lấy số tiền 3.700.000 đồng trong túi quần bên trái ra thì K giật lấy và cùng N lên xe mô tô do L điều khiển tẩu thoát đến bãi đất trống địa chỉ W, khu phố B, phường BC thì dừng xe lại. Tại đây, N vứt bỏ con dao, K chia số tiền cướp được cho N 1.000.000 đồng, chia cho L số tiền 700.000 đồng, còn lại 2.000.000 đồng thì K giữ tiêu xài.
Sau khi bị cướp tài sản, anh H đến Công an phường Bình Chiểu, quận Thủ Đức trình báo. Qua truy xét, ngày 10/7/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức triệu tập K, N và L làm việc. K, N và L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nêu trên.
Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2020/HSST ngày 20 tháng 02 năm 2020 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh:
- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lê Phúc K 07 năm 06 tháng tù về “Tội cướp tài sản”;
- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 07 năm tù về “Tội cướp tài sản”;
- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 91, 101 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Dũ L 06 năm tù về “Tội cướp tài sản”;
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên xử lý về vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo Lê Phúc K và Nguyễn Văn N không kháng cáo.
Ngày 28 tháng 02 năm 2020, Luật sư Nguyễn Hữu Thục – người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Dũ L có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo Nguyễn Dũ L xác nhận vào đơn kháng cáo của Luật sư, đồng ý với nội dung kháng cáo của Luật sư.
Tại phiên tòa:
Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Dũ L giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Bị cáo Nguyễn Dũ L giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù, do hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt quá nặng. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá về tính chất mức độ hành vi phạm tội, xem xét các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã kết luận: Với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 khi xét xử bị cáo Lê Phúc K, Nguyễn Văn N và áp dụng thêm Điều 91, 101 Bộ luật hình sự để xét xử bị cáo Nguyễn Dũ L về “Tội cướp tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm, Luật sư bào chữa cho bị cáo L có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Mặc dù Luật sư không có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331 Bộ luật tố tụng hình sự, nhưng bị cáo L xác nhận vào đơn kháng cáo của Luật sự, đồng ý với nội dung kháng cáo của Luật sư, nên xác định bị cáo có kháng cáo, kháng cáo của bị cáo trong thời hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, phạm tội với vai trò đồng phạm giúp sức, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường khắc phục hậu quả và được bị hại bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, mức hình phạt 06 năm tù tuyên phạt đối với bị cáo là quá nghiêm khắc, chưa đảm bảo nguyên tắc lượng hình đối với người chưa đủ 18 tuổi quy định tại Điều 101 Bộ luật hình sự so với các bị cáo khác trong vụ án. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, giảm hình phạt tù cho bị cáo, đề nghị xử phạt bị cáo từ 04 đến 05 năm tù.
Do Luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm không có quyền kháng cáo, nhưng cấp sơ thẩm tuyên quyền kháng cáo của Luật sư là không đúng, Hội đồng xét xử cần rút kinh nghiệm đối với cấp sơ thẩm.
Bị cáo L không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, nói lời sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo L, kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm cùng các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ kết luận: Ngày 03/3/2019, bị cáo Nguyễn Văn N rủ Lê Phúc K và Nguyễn Dũ L cùng đi cướp tài sản của người khác lấy tiền chia nhau tiêu xài. Tại trước địa chỉ W, khu phố B, phường BC, quận Đ, khi phát hiện anh Vũ Phước H điều khiển xe gắn máy tới, bị cáo K và N đã chặn đầu xe của anh H lại, bị cáo L ngồi trên xe cảnh giới, bị cáo N cầm dao chỉ thẳng vào ngực anh H để khống chế, bị cáo K nói anh H “Có bao nhiêu tiền thì móc hết ra đây”. Các bị cáo đã dùng con dao rựa dài khoảng 01m, lưỡi bằng kim loại dài khoảng 30 cm, khống chế uy hiếp sử dụng vụ lực ngay tức khắc đối với anh H để cướp tài sản, làm cho anh H sợ hãi, lâm vào tình trạng không thể kháng cự nên phải đưa cho các bị cáo số tiền 3.700.000 đồng. Với hành vi phạm tội như trên của các bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Dũ L và đồng phạm phạm “Tội cướp tài sản” và áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 khi xét xử đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 28 tháng 02 năm 2020, Luật sư bào chữa cho bị cáo L có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù cho bị cáo và bị cáo L xác nhận vào đơn đồng ý với nội dung kháng cáo của Luật sư. Kháng cáo của bị cáo L trong thời hạn luật định nên được giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét kháng kháng cáo của bị cáo L xin được giảm nhẹ hình phạt tù, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy: Khi xét xử vụ án, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã đánh gía toàn diện nội dung vụ án, xem xét vai trò của từng bị cáo trong vụ án, bị cáo khi phạm tội chưa đủ 18 tuổi và đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91, 101 Bộ luật hình sự để lượng hình đối với bị cáo. Tuy nhiên, mức hình phạt 06 năm tù mà cấp sơ thẩm tuyên phạt đối với bị cáo L là có phần nghiêm khắc so với mức hình phạt mà cấp sơ thẩm đã tuyên phạt đối với các bị cáo khác trong vụ án. Bị cáo N là người chủ mưu, trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự bị tuyên phạt 07 năm 06 tháng tù và bị cáo K là người cùng bị cáo N đe dọa anh H để cướp tài sản bị tuyên phạt 07 năm tù, trong khi đó bị cáo L phạm tội với vai trò đồng phạm giúp sức, phạm tội lần đầu do bị rủ rê, lôi kéo, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực bồi thường khắc phục hậu quả và được bị hại có đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, nhận thức pháp luật còn hạn chế và có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, mức hình phạt mà cấp sơ thẩm tuyên phạt đối với bị cáo mặc dù dưới khung hình phạt nhưng chưa đảm bảo nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội quy định tại Điều 91 và 101 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Do đó, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giảm hình phạt cho bị cáo. Quan điểm đề nghị giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ, nên chấp nhận.
Ngày 20/02/2020, Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành xét xử vụ án thì bị cáo Nguyễn Dũ L đã trên 18 tuổi, theo quy định tại Điều 331 Bộ luật tố tụng hình sự thì Luật sư bào chữa cho bị cáo không có quyền kháng cáo đối với bản án sơ thẩm. Do đó bác kháng cáo của Luật sư Nguyễn Hữu Thục – người bào chữa cho bị cáo L.
Luật sư bào chữa cho bị cáo L không có quyền kháng cáo như đã phân tích ở phần trên, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên quyền kháng cáo của Luật sư là không đúng quy định, cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.
[3] Về án phí: Do chấp nhận kháng cáo, bị cáo Nguyễn Dũ L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các nội dung khác của Bản án hình sự sơ thẩm do không bị kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Dũ L, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 32/2020/HSST ngày 20 tháng 02 năm 2020 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 168, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54, Điều 91 và 101 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Dũ L 04 (bốn) năm tù về “Tội cướp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 11/7/2019.
2- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án, lệ phí Tòa án:
Bị cáo Nguyễn Dũ L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3- Bác kháng cáo của Luật sư Nguyễn Hữu Thục.
Các nội dung khác của Bản án hình sự sơ thẩm do không bị kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 251/2020/HSPT ngày 25/05/2020 về tội cướp tài sản
Số hiệu: | 251/2020/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/05/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về