TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 02/2019/HSPT NGÀY 15/01/2019 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 15/01/2019, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 08/2019/TLPT-HS ngày 02 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo Vũ Văn T, do có kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Bùi Thị H, kháng nghị của VKSND huyện Thanh Miện phần xử lý vật chứng, đối với bản án hình sự sơ thẩm số 47/2018/HSST ngày 31/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
* Bị cáo không kháng cáo:
VŨ VĂN T, sinh năm 1992 tại Hải Dương; Nơi đăng ký HKTT: Thôn TT, xã LS, huyện TM, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 09/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh ; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Con ông Vũ Quang T, sinh năm 1955 và con bà Vũ Thị T, sinh năm 1957; Tiền án: Bản án số 38/2013/HSST, ngày 27/9/2013 của TAND huyện Thanh Miện xử phạt Vũ Văn T 06 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản; Bản án số 37/2015/HSST, ngày 10/12/2015 của TAND huyện Thanh Miện xử phạt Vũ Văn T 07 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản; Bản án số 11/2016/HSST, ngày 26/4/2016 của TAND huyện Bình Giang xử phạt Vũ Văn T 06 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản. Tổng hợp với Bản án số 37/2015/HSST buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 13 tháng tù. Ngày 06/12/2016 chấp hành xong hình phạt tù;Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt truy nã và bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương từ ngày 22/6/2018; Vắng mặt tại phiên tòa.
- Người bị hại: anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1974 - ĐKHKTT: Thôn TT, xã LS, huyện TM, tỉnh Hải Dương (Vắng mặt).
- Người có quyền lợi liên quan có kháng cáo: Bà Bùi Thị H, sinh năm 1960 - ĐKHKTT: Thôn TT, xã LS, huyện TM, tỉnh Hải Dương (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ ngày 17/5/2018, anh Nguyễn Văn T đi bộ từ nhà ra quán bia. Khi đi đến khu vực Trạm y tế xã LS thì gặp Vũ Văn T điều khiển xe mô tô Exciter, BKS 34F1-146.28 chở Trương Mậu H. Vũ Văn T và H bảo anh Nguyễn Văn T cho đi cùng, anh Nguyễn Văn T tưởng chỉ rủ cùng đi ra quán bia nên đồng ý. Vũ Văn T điều khiển xe mô tô chở H và Nguyễn Văn T đến quán bia nhà anh Nguyễn Tiến T ở cùng thôn. Khi đến quán bia, anh Nguyễn Văn T và Vũ Văn T xuống xe, còn H điều khiển xe đến phố T, xã ĐT, huyện TM đón Đoàn Thị T, sinh năm 1988 trú tại thôn Q, xã BX, huyện BG, tỉnh Hải Dương (là bạn gái H) đến quán uống bia với Vũ Văn T và anh Nguyễn Văn T. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, anh Nguyễn Tiến T đưa hóa đơn thanh toán tiền bia cho Vũ Văn T hết 195.000 đồng. Vũ Văn T cầm hóa đơn đưa cho anh Nguyễn Văn T và nói “chú trả hộ cháu” thì anh Nguyễn Văn T trả lời “tao không có tiền, mày trả đi”. Vũ Văn T và H nói “chú rủ đi uống bia mà không có tiền”, tranh cãi một lúc Vũ Văn T nói với H “đánh cho nó một trận”, ý là đánh anh Nguyễn Văn T để anh Nguyễn Văn T phải trả tiền bia, thì H dùng tay phải đẩy vào ngực anh Nguyễn Văn T làm anh Nguyễn Văn T lùi lại. Sau đó, anh Nguyễn Văn T đi ra ngoài cửa quán còn H đi sang đường đến gần rìa sông, phía trước cửa quán bia khoảng 15m, H gọi anh Nguyễn Văn T sang chỗ H, khi anh Nguyễn Văn T đi đến gần thì H dùng tay trái túm cổ tay phải khoác lên vai, ghì người anh Nguyễn Văn T xuống và nói “anh đưa em 200.000 nghìn để trả tiền bia”, anh Nguyễn Văn T gồng người lên rồi nói “trong ví tao không nổi 50.000đ” H bảo “nói nhiều vứt xuống sông bây giờ”. Anh Nguyễn Văn T sợ hãi nên đứng im. Thấy H ghì cổ anh Nguyễn Văn T thì Thư ra can ngăn, nói với H “thôi lằng nhằng làm gì”, rồi Thư đi ra xe đứng. Vũ Văn T đi ra chỗ Thư nói “ra bảo H lấy điện thoại của chú Nguyễn Văn T” thì Thư trả lời “tao không bảo, lằng nhằng làm gì”. Thấy vậy, Vũ Văn T đi ra đứng đằng sau H nói với H “lấy ví và điện thoại của anh Nguyễn Văn T”. H vẫn dùng tay phải ghì cổ anh Nguyễ n Văn T xuống, tay trái vòng qua trước mặt anh Nguyễn Văn T sờ, tìm trong túi quần phía sau bên phải của anh Nguyễn Văn T lấy 01 ví màu nâu rồi đưa cho Vũ Văn T kiểm tra. Vũ Văn T kiểm tra thấy trong ví chỉ có giấy tờ, không có tiền. H tiếp tục sờ vào túi quần bên trái anh Nguyễn Văn T lấy 01 điện thoại di động Samsung Galaxy J7 Pro màu đen rồi cho vào túi quần phía trước bên phải đang mặc. Cùng lúc đó, Vũ Văn T cầm ví đưa cho anh Nguyễn Văn T. Lúc đó Thư bảo H chở Thư về thành phố HD. Thư quay xe mô tô đến chỗ Vũ Văn T và H thì H và Vũ Văn T cùng ngồi lên xe. Thư điều khiển xe đi đến đầu cầu đối diện Công ty Vietstas ở xã ĐT thì dừng lại, H đưa cho Vũ Văn T 01 điện thoại của anh Nguyễn Văn T để Vũ Văn T cầm và quản lý. Sau đó Thư đứng ở cầu đợi, H điều khiển xe mô tô chở Vũ Văn T về nhà rồi quay lại đón Thư. Trong quá trình H và Vũ Văn T chiếm đoạt 01 điện thoại của anh Nguyễn Văn T thì Thư can ngăn và bảo Hu trả lại điện thoại cho anh Nguyễn Văn T. Vì vậy, sau khi đón Thư thì H chở Thư qua nhà anh Nguyễn Văn T và bảo “Vũ Văn T cầm điện thoại của anh đấy, sáng mai ra mà lấy” rồi H chở Thư lên thành phố HD. Qúa trình điều tra Vũ Văn T và Trương Mậu H bỏ trốn khỏi địa phương. Ngày 12/6/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Miện ra Quyết định truy nã số 03, 04 đối với Vũ Văn T và H. Ngày 21/6/2018, Vũ Văn T bị bắt theo Quyết định truy nã.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 02/KL-HĐĐG ngày 04/6/2018 của Hội đồng định giá tài sản huyện Thanh Miện kết luận: 01 điện thoại Samsung Galaxy J7 Pro màu đen có giá là 4.000.000 đồng.
Bản án hình sự sơ thẩm số 47/2018/HSST ngày 31/10/2018, Tòa án nhân dân (TAND) huyện Thanh Miện đã căn cứ khoản 1 Điều 168; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38 Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Vũ Văn T 48 tháng tù về tội cướp tài sản; Về xử lý vật chứng: Tiếp tục quản lý vật chứng xe moto Eciter BKS 34F1-146.28 tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Miện để tiếp tục điều tra, khi nào bắt đượcTrương Mậu H sẽ xem xét xử lý vật chứng trong cùng vụ án của Trương Mậu H. Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 09/11/2018, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Bùi Thị H kháng cáo, đề nghị trả lại bà chiếc xe mô tô BKS 34F1-146.28 vì đây là tài sản thuộc quyền quản lý, sử dụng của bà H.
Ngày 07/11/2018,VKSND huyện Thanh Miện kháng nghị đề nghị cấp phúc thẩm sửa một phần bản án sơ thẩm, tuyên trả lại cho bà Bùi Thị H xe mô tô BKS 34F1-146.28 vì không phải là công cụ, phương tiện phạm tội và thuộc sở hữu của bà H.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Bùi Thị H giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh tham gia phiên tòa giữ nguyên nội dung kháng nghị và đề nghị HĐXX chấp nhận nội dung kháng nghị và kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự sửa bản án sơ thẩm về phần xử lý vật chứng: Trả lại cho bà Bùi Thị H 01 xe mô tô Eciter BKS 34F1-146.28.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Kháng cáo của bà Bùi Thị H và kháng nghị của VKSND huyện Thanh Miện trong thời hạn luật định là kháng cáo, kháng nghị hợp lệ.
[2] Bị cáo Vũ Văn T bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội Cướp tài sản theo điểm a khoản 1 Điều 260 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Về tội danh, hình phạt của bị cáo không có kháng cáo, kháng nghị.
[3] Xét kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Bùi Thị H và kháng nghị của Viện kiểm sát, HĐXX nhận thấy:
Theo tài liệu chứng cứ thu thập, xác định xe mô tô Eciter BKS 34F1- 146.28, giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Vũ Ngọc C, sinh năm 1986 ở thôn P K, xã CLB, huyện TM, tỉnh Hải Dương. Anh C đã bán xe cho cửa hàng xe máy HH của chị Trương Thị H ở thôn TT, xã LS, huyện TM, tỉnh Hải Dương. Khi mua bán cửa hàng chỉ kiểm tra giấy tờ xe và giấy tờ nhân thân thấy chính chủ nên mua, mục đích để bán lại cho người khác. Vào tháng 2 năm 2018, chị H bán lại cho bà Bùi Thị H với giá 25.000.000đ, thể hiện tại giấy biên nhận bán xe (BL220). Qua xác minh, hiện tại gia đình anh C đã đi khỏi địa phương, không rõ đi đâu, làm gì. Kết quả tra cứu tại Công an tỉnh Hải Dương, xác định xe mô tô Eciter BKS 34F1-146.28 không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Như vậy, xác định xe máy trên thuộc quyền quản lý sử dụng hợp pháp của bà H. Ngày 17/5/2018, Trương Mậu H mượn xe của bà đi đâu làm gì bà không biết.
Mặt khác, bị cáo Vũ Văn T và H, không có ý định thực hiện hành vi cướp tài sản của anh Nguyễn Văn T trước khi đến quán uống bia. Đến khi không có tiền trả, Vũ Văn T, H yêu cầu anh Nguyễn Văn T trả, anh thu không trả, thì Vũ Văn T, H mới có hành vi đánh, ghì người anh Nguyễn Văn T để lấy tài sản là điện thoại và ví của bị hại. Như vậy, xác định xe chỉ là phương tiện để bị cáo và bị hại đi đến quán bia, không phải công cụ, phương tiện thực hiện hành vi phạm tội.
Với các phân tích trên, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm b khoản 3 Điều 106 BLTTHS, thấy rằng cấp sơ thẩm tuyên tiếp tục quản lý xe mô tô nói trên tại kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Miện để tiếp tục điều tra, khi nào bắt được Trương Mậu H sẽ xem xét xử lý vật chứng trong cùng vụ án của Trương Mậu H, là không phù hợp pháp luật. Do vậy, cần chấp nhận kháng cáo của bà H, kháng nghị của VKSND huyện Thanh Miện sửa bản án sơ thẩm về phần xử lý vật chứng: Trả lại cho bà Bùi Thị H 01 xe mô tô Eciter BKS 34F1-146.28.
[4] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, HĐXX không xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự;
QUYẾT ĐỊNH
1. Chấp nhận kháng cáo của bà Bùi Thị H và kháng nghị của VKSND huyện Thanh Miện sửa bản án sơ thẩm về phần xử lý vật chứng tại bản án hình sự sơ thẩm số 47/2018/HSST ngày 31/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Miện.
2. Căn cứ khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Trả lại cho bà Bùi Thị H 01 xe mô tô Eciter BKS 34F1-146.28 (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/10/2018 giữa Công an huyện Thanh Miện và Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Miện).
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án phúc thẩm (Ngày 15/01/2019)./.
Bản án 02/2019/HSPT ngày 15/01/2019 về tội cướp tài sản
Số hiệu: | 02/2019/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/01/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về