Bản án 250/2021/HS-PT ngày 15/06/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 250/2021/HS-PT NGÀY 15/06/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Vào ngày 15 tháng 6 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 296/2021/TLPT-HS ngày 15 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo Trần Ngô Gia B, do có kháng cáo của bị cáo; đồng thời kháng cáo của người bị hại ông Hồ A T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Việt H, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2021/HSST ngày 11-3 - 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

- Bị cáo có kháng cáo: Trần Ngô Gia B; sinh ngày: 25/11/1990, tại Đà Nẵng. Nơi cư trú: thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: không (Nguyên là nhân viên C ty cổ phần đầu tư và phát triển giáo dục Đà Nẵng); trình độ văn hóa: 12/12; CMND số: 20159xxxx do CATP Đà Nẵng cấp ngày 17/3/2016; tiền án, tiền sự: chưa; con ông Trần Ngô Gia B (SN 1969) và bà Trần Thị Hiếu V (SN 1970); gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; có vợ và 02 con, lớn nhất sinh năm 2015, nhỏ nhất sinh năm 2020; bị bắt tạm giam ngày 21/9/2020; có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Phan Thị T, C ty Luật TNHH MTV D, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng; có mặt.

- Bị hại có kháng cáo: Ông Hồ A T, sinh năm 1982; nơi cư trú: thành phố Đà Nẵng; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Bà Nguyễn Thị Việt H, sinh năm 1978; nơi ĐKHKTT: tỉnh Bình Định; Chỗ ở: tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt.

+ Bà Phạm Thị H1, sinh năm 1962; nơi cư trú: tỉnh Quảng Bình; vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1964; nơi cư trú: tỉnh Quảng Nam; vắng mặt.

+ Bà Khuất Thị L; nơi cư trú: tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt.

+ Bà Hoàng Huyền L, sinh năm 1975; nơi ĐKHKTT: tỉnh Quảng Bình; Chỗ ở: tỉnh Quảng Bình; vắng mặt.

+ Ông Lương Xuân T; nơi cư trú: tỉnh Thanh Hóa; vắng mặt.

+ Ông Hoàng Khắc C, sinh năm 1964; nơi cư trú: tỉnh Nghệ An; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1] Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu năm 2017, do cần tiền trả nợ và tiêu xài cá nhân, Trần Ngô Gia B biết ông Hồ A T, là đồng nghiệp của B tại C ty cổ phần đầu tư và phát triển Giáo dục Đà Nẵng, có mối quan hệ quen biết với các Nhà sách ở các tỉnh, có thể nhập sách với số lượng lớn về bán. B nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản bằng việc nhờ ông T đứng ra liên hệ lấy sách giáo khoa các loại về giao cho B. Để lấy được tiền ngay từ các đại lý sách, B đưa ra với mức chiết khấu cao hơn, khoảng 19- 38% so với chiết khấu bình thường khoảng từ 15-20%, sau khi nhận tiền hàng thì B chỉ trả lại cho ông T một phần để trả cho nhà cung cấp, số tiền còn lại B lấy lý do các Nhà sách chưa thanh toán đầy đủ để rồi chiếm đoạt, sử dụng cá nhân. B hứa hẹn đến cuối năm tổng kết số tiền sách và trích lại cho anh T tiền hoa hồng là 1% trên tổng giá trị sách anh T giao cho B.

Do tin tưởng B, ông T liên hệ mua sách của đơn vị, cá nhân gồm: Bà Nguyễn Thị Việt H - Giám đốc C ty TNHH một thành viên đầu tư công nghệ giáo dục H; bà Phạm Thị H1; ông Nguyễn Văn Đ - là các Chủ hộ kinh doanh Trung tâm sách thiết bị trường học để giao cho B. Tổng trị giá sách ông T giao cho B là 17.036.000.000 đồng.

Sau khi nhận sách từ ông T, B giao dịch qua địa chỉ email của B giabach.xxxx@gmail.com để bán cho các nhà sách gồm:

1. Nhà sách Yến C do ông Hoàng Khắc C làm chủ: Từ ngày 14/4/2017 đến ngày 14/11/2017, ông C mua sách của B và đã chuyển trả đủ số tiền hàng trị giá 4.715.500.000 đồng qua tài khoản số 0041000166995 mang tên Trần Ngô Gia B tại Ngân hàng V theo từng đơn hàng ngay sau khi nhận hàng.

Ngoài ra, hiện B vẫn còn nợ ông C số tiền 250.000.000 đồng tiền trả trước đặt hàng nhưng chưa giao sách, nhưng ông C không yêu cầu gì về số tiền này.

2. Nhà sách T Cúc do ông Lương Xuân T làm chủ: Từ ngày 12/5/2017 đến ngày 20/7/2017, ông T mua sách của B và đã chuyển trả đủ số tiền hàng trị giá 3.192.785.254 đồng qua tài khoản số 0041000166995 mang tên Trần Ngô Gia B tại Ngân hàng V theo từng đơn hàng ngay sau khi nhận hàng.

3. Nhà sách Việt Lý do bà Khuất Thị L làm chủ: Từ ngày 14/4/2017 đến ngày 11/9/2017, bà L mua sách của B và đã chuyển trả đủ số tiền hàng trị giá 7.769.531.640 đồng qua tài khoản số 0041000166995 mang tên Trần Ngô Gia B tại Ngân hàng V theo từng đơn hàng ngay khi nhận hàng.

4. Nhà sách T do bà Hoàng Hiền L làm chủ: Từ ngày 04/5/2017 đến ngày 24/8/2017, bà L mua sách của B và đã chuyển trả đủ số tiền hàng trị giá 1.639.099.000 đồng qua tài khoản số 0041000166995 mang tên Trần Ngô Gia B tại Ngân hàng V theo từng đơn hàng ngay sau khi nhận hàng.

Mặc dù các Nhà sách thanh toán đầy đủ tiền hàng ngay sau khi nhận hàng, nhưng B chỉ chuyển trả cho ông T 10.255.000.000 đồng, chiếm đoạt số tiền 6.781.000.000 đồng, đồng thời nói với ông T là các Nhà sách chưa trả đủ tiền.

Ngoài mua bán sách, cũng trong thời gian này, để có tiền trả nợ và tiêu xài cá nhân, B nhờ ông T lấy số lịch trị giá 70.000.000 đồng của C ty CP đầu tư và phát triển giáo dục Đà Nẵng mang đi bán và lấy lý do trả nợ bà H để mượn ông T số tiền 220.000.000 đồng, đến nay không trả lại cho ông T.

Tổng cộng, B nhận và chiếm đoạt của ông Hồ A T số tiền 7.071.000.000 đồng (Bảy tỷ, không trăm bảy mươi mốt triệu đồng).

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra tiến hành cho B trích xuất các dữ liệu điện tử lưu trữ trên địa chỉ email của B giabach.xxxx@gmail.com gửi đơn hàng đến các nhà sách, thể hiện các nội dung số lượng sách B giao, số tiền hàng.

Cơ quan điều tra cũng tiến hành lập biên bản làm việc giữa Hồ A T và Nguyễn Thị Việt H, Nguyễn Văn Đ và Phạm Thị H1 để xác định số sách bà H, ông Đ, bà H1 giao cho ông T để ông T giao cho B đi bán.

[2] Tại Bản án hình sự sơ thẩm s 15/2021/HSST ngày 11/2/2021, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nng đã quyết định:

Tuyên bố Bị cáo Trần Ngô Gia B phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Ngô Gia B 17 (Mười bảy) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam ngày 21/9/2020.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm tuyên về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[3] Kháng cáo:

Ngày 16-03-2021, bị cáo Trần Ngô Gia B kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 19-03-2021 ông Hồ A T kháng cáo với yêu cầu: làm rõ bị cáo B đã sử dụng số tiền chiếm đoạt như thế nào, đồng thời xử lý bị cáo B về tội đánh bạc.

Ngày 15-03-2021 bà Nguyễn Thị Việt H kháng cáo với yêu cầu: Tòa án cấp phúc thẩm xét xử cho tiến hành điều tra lại vụ án để làm rõ động cơ, mục đích chiếm đoạt của bị cáo T và xử lý không tách việc xử lý hành vi đánh bạc mà bị cáo khai ra khỏi vụ án này.

[4] Tại phiên tòa phúc thm:

Bị cáo Trần Ngô Gia B có đơn xin rút kháng cáo, khẳng định đã tự nguyện rút kháng cáo do xác định hình phạt của Tòa án sơ thẩm là phù hợp.

Ông Hồ A T và bà Nguyễn Thị Việt H giữ nguyên kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên tòa có ý kiến: Thẩm phán, Thư ký Tòa án và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Về nội dung đề nghị đình chỉ xét xử đối với kháng cáo của bị cáo; không chấp nhận kháng cáo của ông Hồ A T và bà Nguyễn Thị Việt H, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm đã được thực đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội: Khoảng đầu năm 2017, do cần tiền trả nợ và tiêu xài cá nhân, Trần Ngô Gia B nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của ông Hồ A T bằng thủ đoạn nhờ ông T liên hệ với các Nhà sách, nhận sách về giao cho B bán lại. Sau khi nhận được sách, bị cáo B bán cho các Đại lý sách với giá chiết khấu cao hơn để thu được tiền ngay, rồi sử dụng tiền trả nợ, tiêu xài cá nhân, chỉ trả lại cho ông T một phần tiền, rồi chiếm đoạt của ông T số tiền 6.781.000.000 đồng. Ngoài ra, B còn nhờ ông T lấy lịch có giá trị 70.000.000 đồng về giao bị cáo bán, nhưng không trả tiền cho ông T, sau đó còn lấy lý do trả nợ để mượn thêm số tiền 220.000.000 đồng của ông T, nhưng thực tế không trả mà chiếm đoạt để sử dụng cá nhân, không trả cho ông T. Như vậy, bằng các thủ đoạn trên, B đã chiếm đoạt được của ông Hồ A T số tiền là 7.071.000.000 đồng (Bảy tỷ không trăm bảy mươi mốt triệu đồng), đến nay, bị cáo chưa khắc phục được phần nào.

Bản án sơ thẩm đã quyết định bị cáo Trần Ngô Gia B phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo thì thấy: bị cáo B có đơn xin rút kháng cáo, tại phiên tòa bị cáo xác định đã tự nguyện rút kháng cáo; do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo.

[4] Xét kháng cáo của anh T và chị H; Bị cáo đã có hành vi gian dối và chiếm đoạt của anh T lượng hàng hóa là sách giáo khoa các loại trị giá 6.781.000. 000 đồng, tiền lịch là 70.000.000 đồng và 220.000.000 đồng; tổng cộng là 7.071.000.000 đồng. Bản án sơ thẩm đã xác định rõ động cơ và mục đích của bị cáo là chiếm đoạt tiền để trả nợ cá nhân trước đó, đánh bạc và tiêu xài cá nhân, đã buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự và dân sự về toàn bộ số tiền chiếm đoạt này. (Buộc bị cáo Trần Ngô Gia B phải bồi thường cho anh Hồ A T số tiền là 7.071.000.000 đồng).

Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh các Văn phòng đăng ký đất đai tại tất cả các Quận của thành phố Đà Nẵng, nhưng không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nào đứng tên Trần Ngô Gia B và vợ là Nguyễn Thị Kim A (bút lục 53-64); đồng thời cũng đã xác minh các Ngân hàng nhưng không có tài khoản tiền gởi mang tên Trần Ngô Gia B và Nguyễn Thị Kim A (các bút lục từ 66-131). Như vậy, Cơ quan điều tra đã tiến hành các thủ tục để điều tra, xác minh tài sản của gia đình bị cáo, nhưng không tìm ra tài sản còn lại; xác định bị cáo đã sử dụng cá nhân số tiền chiếm đoạt, nên buộc bị cáo chịu hoàn toàn trách nhiệm là hợp lý.

Về nội dung bị cáo khai có dùng số tiền chiếm đoạt để tham gia đánh bạc, bản án sơ thẩm đã nhận định rõ là hiện nay Cơ quan cảnh sát điều tra đang tiếp tục điều tra làm rõ hành vi này để xử lý sau, là hợp lý.

Đối với trường hợp của chị Nguyễn Thị Việt H, hồ sơ vụ án thể hiện anh Hồ A T hiện còn nợ chị Nguyễn Thị Việt H số tiền là 3.144.238.158 đồng. Bản án sơ thẩm đã xác định đây là quan hệ dân sự ngay tình, hợp pháp giữa ông T với chị H, nên các bên tự thương lượng giải quyết.

Bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo đúng tội danh và hình phạt phù hợp, xác định rõ mức tiền mà bị cáo chiếm đoạt và quy trách nhiệm cho bị cáo phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị hại anh Hồ A T cũng thừa nhận số tiền chiếm đoạt của bị cáo được tuyên trong Bản án sơ thẩm là đúng. Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy không có cơ sở chấp nhận các kháng cáo của anh Hồ A T và chị Nguyễn Thị Việt H.

[4] Về án phí phúc thẩm: các kháng cáo của bị hại không được chấp nhận, nhưng các kháng cáo này không phải là các kháng cáo về phần quyết định dân sự vì người kháng cáo đều thống nhất tổng số tiền thiệt hại và mức buộc bị cáo đã chiếm đoạt phải hoàn trả được tuyên trong Bản án sơ thẩm; đây là kháng cáo về phần thủ tục tố tụng hình sự cụ thể để làm sáng tỏ thêm hành vi chiếm đoạt của tội phạm, thủ tục nhằm bảo đảm trách nhiệm bồi thường dân sự; do đó người kháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.

Bởi các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ Điều 348; điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Ngô Gia B.

Không chấp nhận kháng cáo của ông Hồ A T và bà Nguyễn Thị Việt H; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 15/2021/HSST ngày 11-3-2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

2. Những người kháng cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 250/2021/HS-PT ngày 15/06/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:250/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;