TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 332/2019/HSPT NGÀY 31/05/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 31 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thái Bình, Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên toà công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 973/2018/TLHS-PT ngày 27-11-2018 đối với bị cáo Lại Thị Th và các bị cáo khác bị xét xử sơ thẩm về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, do có kháng cáo của bị cáo và kháng cáo của người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2018/HSST ngày 18-10-2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình.
* Bị cáo bị kháng cáo: Lại Thị Th, sinh năm 1973 tại Thái Bình; giới tính: Nữ; ĐKNKTT và cư trú tại thôn T, xã M, huyện Đ, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Giáo viên mầm non; dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: Lớp 7/10; con ông Lại Văn Ph và bà Nguyễn Thị R (đều đã chết); có chồng Phạm Văn H; có 04 con (con lớn sinh năm 1991, con nhỏ sinh năm 2012); tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giam từ ngày 30-6-2017 đến nay; có mặt.
* Bị cáo có kháng cáo: Đặng Đình Đ, sinh năm 1955 tại Thái Bình; giới tính: Nam; ĐKNKTT và cư trú tại thôn N, xã L, huyện H, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Hưu trí; dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: Lớp 7/10; con ông Đặng Văn B (đã chết) và bà Nguyễn Thị Th; có vợ Vũ Thị S; có 02 con (con lớn sinh năm 1981, con nhỏ sinh năm 1983); tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại; có mặt.
* Người bào chữa cho các bị cáo:
1. Luật sư Bùi Xuân S– Văn phòng luật sư P và cộng sự, Đoàn luật sư tỉnh Thái Bình, bào chữa cho bị cáo Lại Thị Th; có mặt.
2. Luật sư Nguyễn Văn T – Công ty luật T, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội, bào chữa cho bị cáo Đặng Đình Đ; có mặt.
* Người bị hại kháng cáo: Bà Lại Thị Lan H, sinh năm 1977; cư trú tại thôn T, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang; có mặt.
Trong vụ án này còn có 47 người bị hại và 17 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không kháng cáo; đều vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tài liệu có trong hồ sơ và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình có nội dung tóm tắt như sau:
Trên cơ sở đơn tố cáo, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Thái Bình (CQĐT) đã tiến hành điều tra xác định Lại Thị Th và Đặng Đình Đ là người không làm nhiệm vụ tuyển dụng công chức, viên chức và không liên quan đến việc giải quyết chế độ chính sách người có công, người bị chất độc màu da cam, nhưng đã đưa ra các thông tin là mình có mối quan hệ quen biết với nhiều người là lãnh đạo của tỉnh Thái Bình nên có thể xin được việc làm và làm chế độ cho những ai có nhu cầu. Sau khi nhận được tiền, Lại Thị Th và Đặng Đình Đ đã không thực hiện như đã hứa và chiếm đoạt số tiền đã nhận. Kết quả điều tra xác định:
Từ năm 2007 đến năm 2017, Th đã trực tiếp nhận tổng số 2.541.794.000đ sau đó không thực hiện và chiếm đoạt của: Lương Văn Đ1 105.000.000đ; Nguyễn Như Ch 15.100.000đ; Nguyễn Giang N 300.000.000đ; Nguyễn Chiến T1 6.500.000đ; Nguyễn Minh T2 5.000.000đ; Trần Văn T3 3.000.000đ; Tạ Văn T4 15.000.000đ; Nguyễn Sỹ C1 3.500.000đ; Lương Ngọc D1 6.700.000đ; Phạm Ngọc T5 3.500.000đ; Lê Minh T6 8.000.000đ (đã trả lại cho 04 người 10.000.000đ); Nguyễn Xuân B 45.000.000đ (đã trả lại 2.500.000đ); Vũ Hồng T7 10.000.000đ (đã trả 2.000.000đ); Phạm Công C2 5.000.000đ (đã trả 2.000.000đ); Phạm Văn P 5.000.000đ (đã trả 2.000.000đ); Nguyễn Văn T8 5.000.000đ (đã trả 5.000.000đ); Nguyễn Văn S2 5.000.000đ; Đỗ Tiến M 28.600.000đ; Trần Đình C3 14.500.000đ; Lê Xuân B2 1.217.730.000đ (đã trả 1.217.730.000đ) và thông qua Đặng Đình Đ nhận 60.000.000đ (đã trả 60.000.000đ); Lại Thị H1 202.505.000đ (đã trả 202.505.000đ); Đặng Đình Đ 380.000.000đ (đã trả 380.000.000đ).
Đặng Đình Đ trực tiếp nhận 1.511.500.000đ của 103 người, trước khi bị khởi tố vụ án, Đ đã trả lại 1.019.000.000đ cho 80 người còn lại 475.500.000đ của 33 người.
Trước khi xét xử sơ thẩm, Đ đã bồi thường xong cho 22 người bị hại gồm: Lương Văn D2 15.000.000đ; Lương Văn H2 17.500.000đ; Nguyễn Khắc M2 15.000.000đ; Đồng Văn S2 18.000.000đ; Đặng Gia T9 15.500.000đ; Tạ Xuân P3 13.500.000đ; Trần Văn T11 15.000.000đ; Trần Quang K1 6.000.000đ; Nguyễn Chí H4 10.500.000đ; Nguyễn Chiến T1 15.000.000đ; Vũ Văn K2 20.000.000đ; Phạm Ngọc U1 12.500.000đ; ông Nguyễn Viết H5 12.500.000đ; Nguyễn Văn S2 15.000.000đ; Nguyễn Như Ch 17.000.000đ; Nguyễn Như G2 15.000.000đ; Trần Văn T3 18.000.000đ; Phạm Văn P2 17.500.000đ; Phạm Công C2 12.000.000đ; Nguyễn Văn B1 17.000.000đ; Vũ Hồng T7 17.500.000đ; Nguyễn Thị N1 5.000.000đ. Số tiền Đ đang chiếm đoạt của 11 người còn lại là 169.500.000đ.
Quá trình điều tra, CQĐT đã thu giữ một số tài liệu gồm các Giấy biên nhận tiền giữa Lại Thị Th và những người bị hại; Giấy hẹn trả tiền; các Giấy nộp tiền vào tài khoản của Lại Thị Th tại Ngân hàng Agribank Việt Nam, chi nhánh tỉnh Thái Bình.Kết luận giám định số 01/KLGĐ- PC54 ngày 21/02/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình xác định chữ viết trên các giấy biên nhận tiền và mẫu chữ viết của Lại Thị Th do cùng một người viết ra; Kết luận giám định số 14/KLGĐ-PC54 ngày 24/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình xác định chữ viết trên các giấy biên nhận tiền và mẫu chữ viết của Đặng Đình Đ là do cùng một người viết ra.
Những người bị hại và người làm chứng đều khai rõ Th và Đ tự tuyên truyền có nhiều quen biết, có khả năng xin được việc và làm chế độ nên họ mới tin tưởng giao tiền.
Cáo trạng số 27/KSĐT ngày 29/5/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình truy tố Lại Thị Th về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo điểm a khoản 4 Điều 139 BLHS 1999; Đặng Đình Đ về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo điểm a khoản 3 Điều 139 BLHS 1999.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2018/HS-ST ngày 18/10/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình đã quyết định: Tuyên bố các bị cáo Lại Thị Th, Đặng Đình Đ phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139 BLHS 1999; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 BLHS 2015: Xử phạt bị cáo Lại Thị Th 17 (mười bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/6/2017.
- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 139 BLHS 1999; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 38 BLHS 2015: Xử phạt bị cáo Đặng Đình Đ 06 (sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.
Không áp dụng hình phạt bổ sung với các bị cáo Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự của các bị cáo; việc xử lý vật chứng; án phí và quyền kháng cáo, kháng nghị theo luật định.
Ngày 26/10/2018, bị cáo Đặng Đình Đ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt (BL 1419).
Ngày 29/10/2018, bị hại Lại Thị Hương kháng cáo yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo Lại Thị Th (BL 1411).
Tại phiên tòa phúc thẩm, Lại Thị Th khai nhận mình chỉ là một giáo viên mầm non không liên quan đến việc tuyển dụng; giải quyết chế độ thương binh và người bị chất độc màu da cam, nhưng Th đã tuyên truyền là mình có khả năng xin được việc làm và làm chế độ cho những ai có nhu cầu. Bị cáo công nhận số tiền mà mình đã chiếm đoạt là 2.541.794.000đ, tuy nhiên trước khi xét xử sơ thẩm Th đã trả cho bà Hương 60.000.000đ nhận từ ông Hòa và 213.564.000đ; trả ông Bằng 60.000.000đ đưa qua Độ và 1.217.730.000đ nhưng đều không có giấy tờ gì.
Đặng Đình Đ khai nhận đã trực tiếp nhận 1.511.500.000đ của 103 người, sau đó giao cho Lại Thị Th 1.331.000.000đ chỉ giữ lại 180.500.000đ. Th đã trả lại cho Độ 380.000.000đ, số tiền còn lại Th vẫn đang quản lý. Sau khi biết Th không làm thủ tục cho mọi người, Đ đã trả lại 1.019.000.000đ cho 80 người trước khi khởi tố vụ án, chiếm đoạt 475.500.000đ. Trước khi xét xử sơ thẩm Độ đã trả lại đủ 306.000.000đ cho 22 người. Trước khi xét xử phúc thẩm, Đ cung cấp tài liệu Đơn đề nghị có xác nhận của chính quyền địa phương của 11 người bị hại trình bày Đ đã trả lại đủ số tiền 169.500.000đ cho họ. Cụ thể: Đào Văn H9 16.000.000đ; Tô Sỹ Đ9 17.000.000đ; Lê Xuân Đ8 18.500.000đ; Vũ Văn Á9 22.000.000đ; Nguyễn Minh T2 13.500.000đ; Nguyễn Bỉnh Thuấn 12.500.000đ; Phạm Văn Sướng 10.500.000đ; Tô Văn H6 10.500.000đ; Nguyễn Sỹ Cẩm 10.000.000đ; Phạm Ngọc T12 4.000.000đ; Lương Ngọc D1 21.000.000đ, nên bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.
Bị hại Lại Thị H đề nghị tăng hình phạt của bị cáo Th vì hành vi của bị cáo lừa đảo nhiều người và gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội:Tòa án cấp sơ thẩm xác định tội danh và áp dụng điều luật đối với các bị cáo Lại Thị Th, Đặng Đình Đ phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị hại, giữ nguyên hình phạt đối với bị cáo Th. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo Đ đã tự nguyện bồi thường xong nên đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo đồng tình với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện lời khai của bị cáo, lời trình bày của những người tham gia tố tụng và quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên tòa,
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
[I] Về tố tụng:
Kháng cáo của bị cáo Đặng Đình Đ và kháng cáo của bị hại Lại Thị Hương đều trong hạn luật định, đảm bảo về hình thức tố tụng nên được xác định là hợp lệ.
[II] Về nội dung:
[1] Lời khai của các bị cáo Lại Thị Th, Đặng Đình Đ tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của mình tại CQĐT và tại phiên tòa sơ thẩm; về cơ bản phù hợp với lời khai của những người bị hại về giao dịch và hành vi giao tiền cho các bị cáo; phù hợp với Kết luận giám định và các chứng cứ khác trong hồ sơ nên có căn cứ xác định: Lại Thị Th và Đặng Đình Đ là người không có nhiệm vụ, nhưng đã hứa hẹn xin việc làm, giải quyết chế độ thương binh và chất độc da cam cho những ai có nhu cầu để nhận và sau đó chiếm đoạt tiền của họ. Trước khi khởi tố vụ án, tổng số tiền Lại Thị Th chiếm đoạt là 2.541.794.000đ và Đặng Đình Đ chiếm đoạt là 475.500.000đ nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định các bị cáo phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, quy định tại điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với Lại Thị Th và điểm a khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999 đối với Đặng Đình Đ là có căn cứ. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: Những tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng. Việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định tổng giá trị chiếm đoạt là tình tiết định khung nhưng vẫn áp dụng thêm tình tiết tăng nặng Phạm tội nhiều lần quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999 là không chính xác, cần phải điều chỉnh cho phù hợp.
[2] Xét kháng cáo của bị hại Lại Thị Hương, Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định: Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, xử phạt bị cáo Lại Thị Th 17 năm 06 tháng tù là tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo. Tại cấp phúc thẩm không có thêm tình tiết mới khác làm căn cứ tăng hình phạt, nên kháng cáo của bị hại không được chấp nhận.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo Đặng Đình Đ, Hội đồng xét xử phúc thẩm có nhận xét như sau: Tại cấp phúc thẩm bị cáo có thêm tình tiết mới bồi thường xong 169.500.000đ cho 11 người bị hại, tuy nhiên so với mức hình phạt 06 năm tù của Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, do vậy kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên, Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự,
QUYẾT ĐỊNH
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đặng Đình Đ; không chấp nhận kháng cáo của bị hại Lại Thị Hương. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2018/HS-ST ngày 18/10/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Lại Thị Th 17 (mười bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 30/6/2017.
Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999; điểm b, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Đặng Đình Đ 06 (sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.
Không áp dụng hình phạt bổ sung với các bị cáo Lại Thị Th và Đặng Đình Đ.
Ghi nhận bị cáo Đặng Đình Đ đã bồi thường xong cho những người bị hại.
Bị cáo Đặng Đình Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 332/2019/HSPT ngày 31/05/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 332/2019/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/05/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về