Bản án 24/2024/HS-ST về tội cướp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TỊNH BIÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 24/2024/HS-ST NGÀY 19/03/2024 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tịnh Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 03/2024/TLST-HS ngày 26 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2024/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 3 năm 2024 đối với các bị cáo:

1. Chau Chí M, sinh ngày 03-3-1999, tại T, An Giang; nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: tổ A, ấp Đ, xã V, thị xã T, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: không biết chữ; dân tộc: Khmer; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; đảng, đoàn: không; con ông Chau K (đã chết) và bà Neàng Chanh L; anh chị em ruột có 04 người, bị cáo là người thứ tư.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22-9-2023 đến ngày 29-9-2023 chuyển tạm giam cho đến nay; có mặt.

2. Neàng C (Chau Von), sinh ngày 17-8-2008, tại T, An Giang; nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: tổ A, ấp T, xã T, thị xã T, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hóa: 4/12; dân tộc: Khmer; giới tính: nam; tôn giáo: Đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; đảng, đoàn: không; con ông Chau T và bà Neàng Sóc N; anh chị em ruột có 03 người, bị cáo là người thứ ba.

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22-9-2023 đến ngày 29-9-2023 chuyển tạm giam cho đến nay; có mặt.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Neàng Chanh C (C): Anh Chau Rách T1, sinh năm 2002 và bà Neàng Sóc N, sinh năm 1982, nơi cư trú: tổ A, ấp T, xã T, thị xã T, tỉnh An Giang; (anh T1, có mặt; bà N, vắng mặt).

Người bào chữa cho các bị cáo Chau Chí M, Neàng Chanh C: Ông Lương Minh H, Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm Trợ giúp Pháp lý nhà nước tỉnh A; (có mặt).

Bị hại:

- Ông Chau D, sinh năm 1985, nơi cư trú: tổ A, ấp X, xã A, thị xã T, tỉnh An Giang; (có mặt).

- Anh Nguyễn Minh Hùng V, sinh năm 2006, nơi cư trú: tổ E, ấp V, xã V, thị xã T, tỉnh An Giang; (vắng mặt).

Người đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Minh Hùng V: Ông Nguyễn Minh C1, sinh năm 1958, nơi cư trú: tổ E, ấp V, xã V, thị xã T, tỉnh An Giang; (vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Ông Chau Sóc B, sinh năm 2004, nơi cư trú: ấp V, xã V, thị xã T, tỉnh An Giang; (có mặt).

- Ông Huỳnh Quốc H1, sinh năm 1965, nơi cư trú: ấp T, xã T, thị xã T, tỉnh An Giang; (vắng mặt).

- Ông Ngô Thế V1, sinh năm 1972, nơi cư trú: tổ H, khóm M, phường N, thị xã T, tỉnh An Giang; (có mặt).

- Bà Nguyễn Ngọc S, sinh năm 1990, nơi cư trú: tổ A, khóm B, phường C, thành phố C, tỉnh An Giang; (vắng mặt).

Người làm chứng:

- Chau T2, sinh năm 1981; (vắng mặt).

- Chau Mán, sinh năm 1976; (vắng mặt).

- Chau Đa, sinh năm 1997; (vắng mặt).

- Neàng Chanh L, sinh năm 1971; (có mặt).

Người phiên dịch cho các bị cáo: Ông Chau Xi N1 - Cộng tác viên phiên dịch tiếng Khmer (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 20-9-2023, sau khi uống rượu xong, Chau Chí M rủ Neàng Chanh C (sinh ngày 17-8-2008) đi tìm tài sản cướp bán lấy tiền tiêu xài thì C đồng ý. Chươnl điều khiển xe mô tô biển số 67AD-002.xx chở M đi tìm tài sản để chiếm đoạt, khi đi C mang theo 01 cây dao tự chế, M mang theo 01 cây búa. Khi đến đoạn đường vắng thuộc tổ A, khóm C, phường C, thị xã T thấy Nguyễn Minh Hùng V (sinh ngày 29-11-2006) đang chạy xe đạp cùng chiều phía trước (hướng tỉnh lộ 948 - phường N), trên tay V đang cầm điện thoại di động thì C và M nảy sinh ý định cướp điện thoại của V nên C lấy cây dao tự chế đưa cho M cầm rồi C điều khiển xe chở M chạy vượt qua áp sát, chặn ngay trước đầu xe của V, C kêu V xuống xe, M cũng bước xuống xe rút cây dao tự chế ra thì V cầm điện thoại bỏ chạy về hướng tỉnh lộ 948 để lại chiếc xe đạp nhưng C và M không lấy xe đạp. Sau đó, C tiếp tục điều khiển xe mô tô chở M chạy về hướng xã T, thị xã T tìm tài sản để cướp.

Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, C điều khiển xe mô tô biển số 67AD-002.xx chở M đến khu vực tổ A, ấp T, xã T, thị xã T phát hiện xe mô tô biển số 67E1-418.xx của anh C2 Sóc Bươnl đang dựng cặp lề đường bên trái Hương lộ 11 hướng T - An Hảo trước nhà T (nhà nghỉ mát), thấy anh Chau D đang nằm trong nhà T3 để trông xe. Khi đó, C và M nảy sinh ý định cướp xe mô tô biển số 67E1-418.xx nên C dừng xe cách chỗ anh D khoảng 10-15 mét rồi C và M đi đến nơi anh D đang nằm bấm điện thoại, C liền cầm dao tự chế kề vào cổ khống chế anh D và hỏi “chiếc xe 67E1-418.xx của ai”, anh D trả lời “xe của mấy người đi ruộng” thì C nói với anh D không được báo cho ai biết. Lúc này, M cầm cây búa nhá về hướng anh D để C đến lấy xe và nổ máy điều khiển chạy về hướng xã A tẩu thoát, M điều khiển xe mô tô 67AD-002.xx chạy theo sau, cả hai điều khiển xe chạy đến huyện T tìm người bán xe vừa cướp được nhưng không bán được và quay về khu vực vườn xoài (thuộc xã A, thị xã T) ngủ và cất giấu xe tại đây.

Đến khoảng 13 giờ ngày 21-9-2023, C điều khiển xe 67E1-418.xx, còn M điều khiển xe 67AD-002.xx đến vựa phế liệu của ông Huỳnh Quốc H1 tại ấp T, xã T, thị xã T bán xe 67E1-418.xx cho ông H1 được 350.000 đồng, cùng nhau tiêu xài hết.

Tang vật thu giữ: 01 xe mô tô biển số 67AD-002.xx, loại xe C50, nhãn hiệu Wayec, màu sơn: đỏ - bạc - đen, dung tích 49, đã qua sử dụng; 01 xe mô tô biển số 67E1-418.xx, nhãn hiệu Ferroli, màu sơn: đen; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme 5i, màu xanh - đỏ; 01 xe đạp hiệu Nasaki; 01 cây dao tự chế, tổng chiều dài 70cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài 54cm, cán dao dài 16cm màu nâu bằng gỗ; 01 vỏ dao tự chế dài 56cm màu nâu bằng gỗ; 01 cây búa cán bằng gỗ dài 23cm, có quấn băng keo màu đen, lưỡi búa bằng kim loại, rộng 5m, dài 9cm lưỡi búa màu trắng. Sau khi xác minh làm rõ, Cơ quan điều tra đã trả lại cho bị hại Chau Dươnl 01 xe mô tô biển số 67E1-418.xx, bị hại V, người đại diện hợp pháp của bị hại Vĩ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme 5i và 01 xe đạp hiệu Nasaki.

Kết quả khám nghiệm hiện trường và bản ảnh đã lưu giữ phù hợp với nội dung vụ án đã nêu trên.

Tại Kết luận định giá số 1852 ngày 29-9-2023 và Kết luận định giá số 2205 ngày 24-11-2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã T kết luận: 01 xe mô tô biển số 67E1-418.xx, nhãn hiệu Ferroli, màu sơn: đen, số máy P52FMH027569 giá trị 3.000.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Realme 5i, màu xanh - đỏ giá trị 1.500.000 đồng; 01 xe đạp Nasakia giá trị 750.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Chau D, Nguyễn Minh Hùng V và đại diện hợp pháp của bị hại V xác nhận đã nhận lại được tài sản bị chiếm đoạt, nay không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường gì khác.

Tại Cơ quan điều tra, các bị cáo Chau Chí M và Neàng Chanh C khai nhận phù hợp với nội dung vụ án đã nêu trên.

Tại Cáo trạng số 17/CT-VKSTB-HS ngày 25-01-2024 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tịnh Biên truy tố các bị cáo Chau Chí M, Neàng Chanh C về tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt là Bộ luật Hình sự năm 2015).

Tại phiên tòa, Các bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi như nội dung cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát đã công bố; các bị cáo khai do cần tiền tiêu xài nên khoảng 19 giờ ngày 20-9-2023, Chau Chí M rủ Neàng C3 Chươnl đi tìm tài sản để cướp thì C đồng ý, C điều khiển xe mô tô biển số 67AD-002.xx chở M, khi gặp bị hại Vĩ đang điều khiển xe đạp, trên tay cầm điện thoại mở flash để chiếu sáng thì C điều khiển xe áp sát, M dùng dao khống chế, đe dọa cướp điện thoại thì bị hại V bỏ chạy, truy hô nên các bị cáo không chiếm đoạt được điện thoại. Sau đó, đến khoảng 21 giờ cùng ngày, C tiếp tục điều khiển xe mô tô chở M đi tìm tài sản để cướp, bị cáo C cầm dao tự chế kề vào cổ khống chế anh Chau D, bị cáo M cầm búa nhá về hướng anh D để C chiếm đoạt xe mô tô 67E1-418.xx rồi cùng tẩu thoát.

Bị hại Chau D khai nhận phù hợp với nội dung cáo trạng đã nêu, đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, không yêu cầu bồi thường gì thêm, yêu cầu xử lý các bị cáo theo quy định pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Chau Sóc B đã được giao trả tài sản bị chiếm đoạt nên không yêu cầu bồi thường gì thêm, xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Ngô Thế V1 xác định đã bán xe mô tô biển số 67AD-002.xx cho bị cáo Neàng Chanh C (Chau Von) vào năm 2023 nên không có ý kiến, yêu cầu đối với xe mô tô 67AD-002.xx bị thu giữ.

Bị hại V, đại diện hợp pháp của bị hại V, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Huỳnh Quốc H1, Nguyễn Ngọc S và những người làm chứng vắng mặt nhưng quá trình điều tra đều khai nhận phù hợp với nội dung Cáo trạng đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với các bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, vai trò tham gia trong vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điềm d khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, o khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt Chau Chí M từ 08 đến 09 năm tù. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 91; Điều 101; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Neàng Chanh C (Chau Von) từ 04 đến 05 năm tù; miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự, các bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại không tiếp tục yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra nên không đề cập xem xét.

Về xử lý vật chứng, đề nghị áp dụng các Điều 46, 47 và 48 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: tịch thu tiêu hủy 01 con dao tự chế, 01 vỏ dao tự chế và 01 cây búa là công cụ các bị cáo dùng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng; tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 xe mô tô biển số 67AD-002.xx là phương tiện được bị cáo C dùng vào việc phạm tội.

Người bào chữa của các bị cáo Chau Chí M, Neàng C3 Chươnl đồng ý với quan điểm của Viện kiểm sát về việc truy tố các bị cáo về tội “Cướp tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự năm 2015; thống nhất với các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đề nghị áp dụng đối với các bị cáo; về nhân thân, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, là đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, bị cáo M không được đi học nên không biết chữ, bị cáo C học lực thấp nên các bị cáo bị hạn chế trong nhận thức pháp luật, các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, người liên quan Chau Sóc B xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt các bị cáo theo mức hình phạt thấp nhất mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

Các bị cáo Chau Chí M, Neàng Chanh C, người đại diện hợp pháp của bị cáo Neàng C3 Chươnl thống nhất với bản luận cứ bào chữa nêu trên của người bào chữa, đồng thời không bào chữa bổ sung gì khác.

Bị hại D, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan V1, B không có ý kiến tranh luận.

Trong lời nói sau cùng, các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm hòa nhập cộng đồng, trở thành công dân lương thiện và có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

- Tại phiên tòa bị hại V, người đại diện hợp pháp của bị hại V, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Huỳnh Quốc H1, Nguyễn Ngọc S và những người làm chứng Chau Thươn, C, C đều vắng mặt. Xét thấy, sự vắng mặt của những người này không gây trở ngại đến việc xét xử của vụ án. Căn cứ Điều 292, Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu trên. Lời khai nhận tội của các bị cáo là phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận:

Khoảng 19 giờ ngày 20-9-2023 tại đoạn đường vắng thuộc tổ A, khóm C, phường C, thị xã T, tỉnh An Giang, các bị cáo Chau Chí M, Neàng Chanh C đã có hành vi điều khiển xe mô tô biển số 67AD-002.xx dùng dao, búa chặn xe của bị hại Vĩ đe dọa, khống chế chiếm đoạt điện thoại di động hiệu Realme 5i Vĩ đang cầm trên tay nhưng V bỏ chạy và truy hô nên các bị cáo không chiếm đoạt được tài sản. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, bị cáo C tiếp tục điều khiển xe mô tô biển số 67AD-002.xx chở bị cáo M đến khu vực tổ A, ấp T, xã T, thị xã T, tỉnh An Giang, bị cáo C đã có hành vi cầm dao tự chế kề vào cổ khống chế anh Chau D, bị cáo M cầm búa nhá về hướng anh Chau D nhằm khống chế để C chiếm đoạt xe mô tô biển số 67E1-418.xx (xe anh C2 Sóc Bươnl gửi anh D quản lý, trông coi). Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 4.500.000 đồng. Sau khi chiếm đoạt được xe mô tô biển số 67E1-418.xx, các bị cáo bán cho ông Huỳnh Quốc H1 được 350.000 đồng, cùng nhau tiêu xài hết.

Hành vi nêu trên của các bị cáo Chau Chí M, Neàng Chanh C đã phạm tội “Cướp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 168 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 có khung hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm (tội phạm rất nghiêm trọng).

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác và trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an và an toàn cho xã hội, làm quần chúng nhân dân lên án và bất bình.

[4] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, vai trò tham gia trong vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Các bị cáo xuất thân từ thành phần nhân dân lao động, trước khi phạm tội là người có nhân thân tốt vì chưa có tiền án, tiền sự, tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại. Tuy nhiên, hành vi của các bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý; động cơ, mục đích của tội phạm là dùng hung khí nguy hiểm, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc để tấn công bị hại, làm bị hại lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt được tài sản.

Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội nên phải chịu tình tiết tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên”. Bên cạnh đó, bị cáo Chau Chí M còn phải chịu tình tiết tăng nặng “xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội”.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà các bị cáo đã thành khẩn khai báo và thực sự ăn năn hối cải; ngoài ra, các bị cáo là người dân tộc Khmer, bị cáo M không biết chữ, bị cáo C học lực thấp nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế, người liên quan Chau Sóc B có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xét thấy:

Trước khi phạm tội các bị cáo Chau Chí M, Neàng Chanh C là người có nhân thân tốt; tuy nhiên, các bị cáo 02 lần thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo M rủ rê, xúi giục bị cáo Neàng Chanh C là người dưới 18 tuổi phạm tội. Tại thời điểm phạm tội ngày 20-9-2023, bị cáo Neàng Chanh C, sinh ngày 17-8-2008 là người dưới 18 tuổi; do đó, Hội đồng xét xử áp dụng chế định người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định tại Chương XII Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với bị cáo Neàng Chanh C khi lượng hình. Vì vậy, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đề buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo các bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 6 Điều 168 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xét thấy, các bị cáo không có tài sản, nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại đã nhận được tài sản bị chiếm đoạt, nay không yêu cầu bồi thường gì khác, do đó Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết tiếp.

[7] Về xử lý vật chứng:

- 01 con dao tự chế, 01 vỏ dao tự chế và 01 cây búa cán bằng gỗ đã thu giữ trong vụ án là công cụ được các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- Bị cáo Neàng Chanh C (C) là người quản lý hợp pháp đối với xe mô tô biển số 67AD-002.xx theo giấy mua bán xe ngày 29-8-2023, xe mô tô này được bị cáo C sử dụng làm phương tiện dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[8] Về biện pháp tư pháp: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Huỳnh Quốc H1 không yêu cầu các bị cáo hoàn trả số tiền đã bỏ ra đề mua xe mô tô 67E1-418.xx bị chiếm đoạt là 350.000 đồng; số tiền này các bị cáo đã cùng nhau tiêu xài hết nên đây là tiền do các bị cáo mua bán, đổi chác vật do phạm tội mà có, xét cần buộc các bị cáo giao nộp để tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[9] Về án phí và quyền kháng cáo:

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo C, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người bào chữa cho bị cáo Neàng Chanh C, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật tố tụng hình sự.

[10] Về các vấn đề khác: Đối với Huỳnh Quốc H1 khi mua xe mô tô biển số 67E1-418.xx không biết xe mô tô do các bị cáo phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T không quy kết trách nhiệm đối với ông H1 là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Chau Chí M, Neàng Chanh C (C) phạm tội “Cướp tài sản”.

1. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, điểm o khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Chau Chí M 08 (tám) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 22-9-2023).

2. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 91, Điều 101 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Neàng Chanh C (Chau Von) 04 (bốn) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 22-9-2023).

3. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ điểm a, điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a, điểm C khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu hủy: 01 con dao tự chế có tổng chiều dài 70cm, 01 vỏ dao tự chế dài 56cm và 01 cây búa cán bằng gỗ dài 23cm;

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 xe mô tô biển số 67D-002.xx, loại xe C50, nhãn hiệu Wayec, màu sơn đỏ - bạc - đen;

(Đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 01 tháng 02 năm 2024 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tịnh Biên).

- Buộc các bị cáo Chau Chí M, Neàng Chanh C giao nộp số tiền 350.000 đồng (ba trăm năm mươi nghìn đồng) đề sung vào ngân sách nhà nước.

4.Về án phí và quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 135, 136 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Các bị cáo Chau Chí M và Neàng C3 Chươnl mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Các bị cáo, đại diện hợp pháp của bị cáo Neàng Chanh C, người bào chữa cho bị cáo Neàng Chanh C, bị hại Chau D, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án Chau Sóc B, Ngô Thế V1 có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Thời hạn kháng cáo của bị hại Nguyễn Minh Hùng V, người đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Minh Hùng V và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Huỳnh Quốc H1, Nguyễn Ngọc S vắng mặt tại phiên tòa là 15 ngày, kể từ ngày nhận tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 24/2024/HS-ST về tội cướp tài sản

Số hiệu:24/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tịnh Biên - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;