TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẦU GIẤY, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 66/2024/HS-ST NGÀY 29/03/2024 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận C, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 57/2024/HSST, ngày 18/3/2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2024/QĐXXST-HS ngày 18/3/2024, đối với bị cáo:
Khúc Anh T, sinh năm 1984 tại H; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT: Phường K, quận T, thành phố H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Khúc Văn T và bà Nguyễn Thị X;
Tiền án:
+ Bản án số 230/2007/HSST ngày 18/12/2007 Tòa án quận Thanh Xuân, thành phố H xử phạt bị cáo 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách là 48 tháng, về tội “Cướp giật tài sản”.
+ Bản án số 72/2009/HSST ngày 28/04/2009 Tòa án quận Thanh Xuân, thành phố H xử phạt 54 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Buộc bị cáo phải chấp hành 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo của Bản án số 230/2007/HSST ngày 18/12/2007 Tòa án quận Thanh Xuân, thành phố H chuyển thành 36 tháng tù giam. Tổng hợp hình phạt chung cho cả hai bản án là 90 tháng tù. Bị cáo ra trại ngày 18/01/2015;
+ Bản án số 56/HSST ngày 24/3/2017, Toán án nhân dân quận Long Biên, thành phố H xử phạt 07 năm tù, về tội “Cướp giật tài sản” (Bị cáo kháng cáo). Bản án số 398/2017/HSPT ngày 08/06/2017 Tòa án thành phố H xử phúc thẩm tuyên phạt bị cáo 06 năm 06 tháng tù, về tội “Cướp giật tài sản”. Ra trại ngày 28/01/2022.
Tiền sự: Không;
Danh chỉ bản số 644 ngày 02/11/2023 lập tại Công an quận C; Bị cáo đầu thú, tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/10/2023; Có mặt tại phiên tòa;
Người bị hại: Chị Nguyễn Thị Q, sinh năm 2003; Nơi ĐKHKTT: xã H, huyện X, tỉnh N; Hiện cư trú: phường L, quận T, Thành phố H; Có mặt tại phiên tòa;
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khúc Anh T là đối tượng nghiện ma tuý, không có việc làm, do không có tiền tiêu xài nên nảy sinh ý định đi cướp giật tài sản để bán lấy tiền ăn tiêu. Khoảng 11 giờ, ngày 18/10/2023, T điều khiển xe máy Wave BKS 29L1-xxxxx, có sử dụng khẩu trang màu trắng che BKS, đứng trên đường vành đai 2 trên cao hướng đi Bưởi – Lạc Long Quân phường Nghĩa Đô, quận C mục đích cướp giật tài sản. T đứng được khoảng 40 phút thì thấy chị Nguyễn Thị Q, sinh năm 2003, trú tại: xã Hải Hoà, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định đi xe máy nhãn hiệu Vision màu xanh, BKS 18H1- xxxxx, để 01 túi xách màu đen kích thước 30cm x 40cm ở chỗ để chân của xe máy nên T điều khiển xe máy từ phía sau đi lên, áp sát xe máy Vision của chị Q từ phía bên phải, cúi xuống dùng tay trái giật chiếc túi xách màu đen của chị Q rồi tăng ga bỏ chạy theo hướng đường Võ Chí Công tẩu thoát. Sau đó, T điều khiển xe máy đi về phố Trần Kim Xuyến, Yên Hoà, C, H, mở túi xách kiểm tra tài sản thấy trong túi xách có 01 máy tính xách tay Macbook màu hồng dung lượng 16G, 01 điện thoại di động Iphone 11 Promax màu xanh dung lượng 256G và số tiền là 230.000 đồng. T lấy hết tài sản rồi tắt điện thoại, vứt chiếc túi xách vào thùng rác ở ven đường, rồi điều khiển xe máy vào cửa hàng sửa chữa điện thoại Huy Hoàng tại địa chỉ: Số 42, Tô Vĩnh Diện, Khương Trung, Thanh Xuân, H bán cho anh Đỗ T M, sinh năm 1975, trú tại: Khương Trung, Thanh Xuân, H, chiếc điện thoại Iphone 11 Promax và máy tính xách tay Macbook được tổng số 2.500.000 đồng, số tiền này T đã tiêu xài cá nhân hết. Đến khoảng 11 giờ ngày 27/10/2023, T lại điều khiển xe máy BKS: 29L1-xxxxx ra đường vành đai 2 trên cao đứng chờ để tiếp tục thực hiện hành vi cướp giật tài sản. Thời điểm này, chị Q trên đường đi học về nhìn thấy T ngồi trên xe máy Honda Wave màu trắng, biển kiểm soát bị che bằng khẩu trang có đặc điểm giống người đã cướp giật tài sản của chị Q ngày 18/10/2023, nên chị Q gọi điện thoại báo Công an phường Nghĩa Đô. Sau đó lực lượng Công an phường Nghĩa Đô đưa T về trụ sở làm việc. Tại Cơ quan Công an, T đã xin được đầu thú và khai nhận hành vi như đã nêu trên.
Cơ quan Công an đã tạm giữ của Khúc Anh T xe máy Honda Wave BKS 29L1-xxxxx1.
Kiểm tra Camera VOV ngày 18/10/2024, ghi lại hình ảnh sau khi Khúc Anh T cướp giật được tài sản đã bỏ chạy.
Kết luận định giá tài sản số 441 ngày 27/10/2023, của Hội đồng định giá trong tố tụng quận C kết luận: 01 túi xách màu đen bằng vải kích thước (30x40cm) có hai quai xách (không có nhãn hiệu, chủng loại) đã qua sử dụng không đủ căn cứ định giá, 01 điện thoại Iphone 11 Promax 256 GB lắp sim 088910xxxx màu xanh đã qua sử dụng trị giá 7.742.000 đồng và 01 máy tính xách tay Macbook màu hồng 16GB, 13,3 inh, ổ cứng 512 GB đã qua sử dụng trị giá 17.685.000 đồng. Tổng trị giá 25.427.000 đồng.
Chị Nguyễn Thị Q khai nhận phù hợp với lời khai của Khúc Anh T. Tuy nhiên, chị Trang Khai chị bị mất số tiền mặt là 700.000 đồng và yêu cầu bị can Khúc Anh T bồi thường 26.127.000 đồng.
Lời khai của Khúc Anh T phù hợp với lời khai người bị hại, nhân chứng và người liên quan cũng như tang vật đã thu giữ.
Anh Đỗ T M khai: Ngày 18/10/2023, anh M không mua 01 điện thoại Iphone 11 Promax 256 GB và 01 máy tính xách tay Macbook màu hồng 16GB của Khúc Anh T. Ngoài lời khai của Khúc Anh T, không có tài liệu nào khác chứng minh Khúc Anh T đã bán tài sản trên cho anh M nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
Đối với chiếc xe máy Honda Wave BKS 29L1-xxxxx1, xác định là tài sản của ông Khúc Văn Th, sinh năm 1961; Nơi thường trú: Phường Khương Trung, quận Thanh Xuân, thành phố H, là bố của Khúc Anh T. Ông Th khai cho T mượn xe để sử dụng, ông Th không biết T sử dụng xe máy đi cướp giật tài sản. Ngày 30/01/2024, Cơ quan điều tra đã trao trả chiếc xe máy Honda Wave BKS 29L1-xxxxx1 cho ông Khúc Văn Th, ông Th nhận lại xe không có ý kiến gì.
Bản Cáo trạng số 52/CT-VKSNTL ngày 14/3/2024 của Viện kiểm sát nhân quận C truy tố bị cáo Khúc Anh T về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d, i Khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
- Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung vụ án nêu trên và xin được giảm nhẹ hình phạt. Đồng ý bồi thường cho người bị hại tổng số tiền 26.127.000 đồng.
- Người bị hại đề nghị bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường tổng số tiền 26.127.000 đồng tương ứng với giá trị tài sản bị cáo đã chiếm đoạt và đề nghị HĐXX giải quyết theo quy định pháp luật.
- Đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, đánh giá nhân thân của bị cáo đã kết luận giữ quan điểm như cáo trạng truy tố và đề nghị HĐXX áp dụng điểm d, i Khoản 2 Điều 171, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Khúc Anh T mức án từ 04 năm đến 05 năm tù; Về hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo do không có nghề nghiệp ổn định. Về xử lý vật chứng: Không; Về dân sự: Đề nghị HĐXX buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường cho người bị hại số tiền 26.127.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại cùng các tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở để xác định: Khoảng 11 giờ 40 phút ngày 18/10/2023, tại đường Vành đai 2 trên cao, phường Nghĩa Đô, quận C, thành phố H, Khúc Anh T đã có hành vi điều khiển xe máy Honda Wave BKS: 29L1-xxxxx1 áp sát xe máy của chị Nguyễn Thị Q rồi dùng tay trái giật chiếc túi xách màu đen ở chỗ để chân xe máy của chị Q trong đó có 01 điện thoại Iphone 11 Promax 256 GB lắp sim 088910xxxx màu xanh trị giá 7.742.000 đồng và 01 máy tính xách tay Macbook màu hồng 16GB trị giá 17.685.000 đồng và 700.000 đồng. Tổng trị giá tài sản là 26.127.000 đồng. Hành vi liên tiếp phạm tội trong thời gian chưa được xóa án tích và việc sử dụng xe máy là nguồn nguy hiểm cao độ để tiếp cận người bị hại nhằm chiếm đoạt tài sản của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d, i Khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận C truy tố bị cáo là có căn cứ pháp luật, đúng người, đúng tội.
[3] Đánh giá về tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an địa phương. Nhân thân bị cáo đã từng bị đưa ra xét xử về tội cùng loại, bị cáo đã từng cải tạo tại trại giam một khoảng thời gian tương đối dài nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học, khi ra trại lại tiếp tục phạm tội. Vì vậy cần xử bị cáo một mức án nghiêm minh mới đủ tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi lượng hình HĐXX cũng xem xét quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự nào.
Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã được phân tích ở trên. Hội đồng xét xử thấy có đủ căn cứ để áp dụng hình phạt tù có thời hạn cũng đủ tác dụng cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung. Vì vậy, áp dụng điểm d, i Khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo mức hình phạt trong khung hình phạt là phù hợp.
[4] Về dân sự: Người bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường tổng số tiền 26.127.000 đồng tương ứng với tài sản mà bị cáo đã chiếm đoạt. Tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường nên cần buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho người bị hại.
[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Khúc T Anh phạm tội “Cướp giật tài sản”.
Căn cứ vào điểm d, i Khoản 2 Điều 171, Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; các Điều 135, 136, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; các Điều 584, 585, 586 và 589 của Bộ luật dân sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử phạt bị cáo Khúc T Anh 48 (Bốn mươi tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 27/10/2023.
Về dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường cho chị Nguyễn Thị Q số tiền 26.127.000 đồng.
Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 1.306.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 66/2024/HS-ST về tội cướp giật tài sản
Số hiệu: | 66/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Cầu Giấy - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về