Bản án 24/2021/HS-ST ngày 23/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BA ĐỒN, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 24/2021/HS-ST NGÀY 23/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong các ngày 18 và 23 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 21/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2021/QĐXXST-HS ngày 04/6/2021, đối với bị cáo:

Hoàng Ngọc L, sinh ngày 03/01/1999, tại thị xã B, tỉnh Quảng Bình; nơi cư trú: thôn C, xã Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Quốc V, sinh năm 1970 và bà Nguyễn Thị Bích N, sinh năm 1972; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tam giam từ ngày 22/01/2021 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

- Người làm chứng: Chị Phạm Thị H, sinh năm 2001; nơi cư trú: tổ dân phố C, phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ 15 phút ngày 21/01/2021, Hoàng Ngọc L điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 73 E1 -28703 chở chị Phạm Thị H, trú tại tổ dân phố C, phường Q, thị xã B, tỉnh Quảng Bình đến trung tâm thị xã Ba Đồn để chơi. Khi đến đoạn đường bê tông thuộc thôn Hợp Hòa, xã Quảng Hòa thì L nhìn thấy một nam thanh niên không rõ danh tính đang đứng ở bên đường. L nãy sinh ý định sử dụng ma túy nên điều khiển xe mô tô đến vị trí nam thanh niên đang đứng khoảng 05m thì dừng xe lại rồi đi bộ đến người thanh niên đó, còn chị H vẫn ngồi ở trên xe mô tô. L hỏi và mua được từ người thanh niên này 03 viên ma túy tổng hợp, dạng hồng phiến được đựng trong một đoạn ống hút nhựa màu xanh, sọc trắng với giá 400.000 đồng. Sau đó, L cầm số ma túy đó trong lòng bàn tay phải và đi bộ về phía chị H đang đứng đợi. Khi L vừa đi được khoảng 02m thì bị Công an xã Quảng Hòa, thị xã Ba Đồn tuần tra phát hiện. Thấy vậy, L ném số ma túy xuống mặt đường thì bị lực lượng Công an kịp thời phát hiện, bắt quả tang và thu giữ số ma túy trên.

Tại Bản kết luận giám định số 249/GĐ-PC 09 ngày 26/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình, kết luận: Mẫu ký hiệu A gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,315g (Không phẩy ba trăm mười lăm gam). Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, Số thứ tự 323, Danh mục II, Nghị định số 73/2018/NĐ - CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ.

Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Ba Đồn đã thu giữ 01 xe mô tô biển kiểm soát 73 E1 -28703, nhãn hiệu YAMAHA Sirius, màu xanh bạc, số máy 5C6J214538, số khung C6JOGY214539, đã qua sử dụng; 01 thẻ căn cước công dân mang tên Hoàng Ngọc L; tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1.070.000 đồng; 01 ống nhựa màu xanh, có sọc trắng, bên trong chứa 03 viên ma túy tổng hợp có khối lượng 0,315 gam.

Quá trình điều tra xác định 01 xe mô tô biển kiểm soát 73 E1 -28703, nhãn hiệu YAMAHA Sirius, màu xanh bạc, số máy 5C6J214538, số khung C6JOGY214539, đã qua sử dụng; 01 thẻ căn cước công dân mang tên Hoàng Ngọc L; tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1.070.000 đồng không liên quan đến tội phạm nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Ba Đồn đã lập biên bản trả lại cho chủ sở hữu. 01 ống nhựa màu xanh, có sọc trắng, bên trong chứa 03 viên ma túy tổng hợp có khối lượng 0,315 gam. Sau giám định đã được niêm phong bằng phong bì thư gián kín số 249/GĐ-PC09 ngày 26/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Bình, bên trong chứa 0,265g chất ma túy Methamphetamine, kèm theo vỏ bao gói là vật chứng vụ án nên đã chuyển Cơ quan thi hành án dân sự thị xã Ba Đồn để xử lý theo thẩm quyền.

Trong vụ án này, có đối tượng nam thanh niên bán ma túy cho L. Quá trình điều tra không xác định được tên tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ xử lý. Cơ qua điều tra tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ và xử lý khi có kết quả.

Người làm chứng là chị Phạm Thị H vắng mặt tại phiên tòa không có lý do, dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Chị H đã có lời khai tại Cơ quan điều tra, xét việc vắng mặt chị H không trở ngại khách quan đến quá trình giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử.

Tại bản Cáo trạng số 22/CT - VKSBĐ ngày 07 tháng 5 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn đã truy tố bị cáo Hoàng Ngọc L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung Bản cáo trạng, đã xem xét, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Hoàng Ngọc L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo Hoàng Ngọc L từ 13 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có việc làm, không có thu nhập ổn định nên miễn trách nhiệm hình phạt bổ sung; về xử lý vật chứng: áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên tịch thu tiêu 01 ống nhựa màu xanh, có sọc trắng và bên trong 03 viên ma túy tổng hợp còn lại sau giám định. Tuyên bị cáo phải chịu án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật và nhất trí với toàn bộ nội dung Bản cáo trạng và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên về tội danh, khung hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ba Đồn đã truy tố đối với bị cáo, không có ý kiến tranh luận gì.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội của mình; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình, cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thự hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo và người tham gia tố tụng không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận là người có nhu cầu sử dụng ma túy, nên khoảng 22 giờ 15 phút ngày 21/01/2021, bị cáo đi đến đoạn đường bê tông thuộc thôn H, xã Q, thị xã Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình thì gặp một nam thanh niên rồi hỏi mua ma túy và mua từ người này 03 viên nén tổng hợp dạng hồng phiến với giá 400.000 đồng. Khi đi được 02m thì bị lực lượng Công an kịp thời phát hiện, bắt quả tang và thu giữ số ma túy cùng các tang vật liên quan. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp về thời gian, không gian, địa điểm và hiện trường nơi xảy ra vụ án, phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập trong hồ sơ vụ án và được tranh tụng tại phiên tòa. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để khẳng định bị cáo Hoàng Ngọc L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, đúng như tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố, quan điểm luận tội của Kiểm sát viên, lời khai nhận tội của bị cáo.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện thấy: Bị cáo là người đã trưởng thành, đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức và biết được ma túy loại Methamphetamine là loại độc dược gây nghiện nguy hiểm, là mặt hàng được Nhà nước độc quyền quản lý để nhằm ngăn chặn tình trạng lạm dụng ma túy, bảo vệ sức khỏe của người dân và ngăn ngừa các tội phạm về ma túy, cho nên mọi hành vi cất giữ ma túy trái với quy định của pháp luật đều bị pháp luật nghiêm cấm và bị coi là tội phạm, nhưng do coi thường, bất chấp pháp luật nên bị cáo đã cố ý tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, nhằm thỏa mản nhu cầu của bản thân. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy. Ngoài ra còn trực tiếp đe doạ nghiêm trọng đến sức khỏe và sự phát triển của bản thân, gây thiệt hại về kinh tế cho gia đình, làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự và an toàn xã hội. Vì vậy, Hội đồng xét xử nghĩ cần có một hình phạt tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện để nhằm đấu tranh, ngăn chặn triệt để tệ nạn ma tuý trên địa bàn.

[4] Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy rằng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhận thức được hành vi sai trái của mình, thuộc tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bội luật Hình sự. Do vậy, cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

[5] Về hình phạt:

Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội thấy: bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết tàng trữ ma túy bị pháp luật nghiêm cấm những đã cố ý tàng trữ 0,315 gam ma túy loại Methaphetamine; hành vi của bị cáo thể hiện ý thức coi thường và bất chấp pháp luật, nên cần áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo theo quy định tại Điều 38 Bộ luật Hình sự để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, nhằm trừng trị người phạm tội, giáo dục họ có ý thức tuận theo pháp luật, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới và giáo dục, răn đe phòng ngừa chung, như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ.

[6] Về hình phạt bổ sung:

Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự “Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa cho thấy, bị cáo là người sử dụng ma túy, lao động tự do, thu nhập không ổn định nên cần chấp nhận ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên để miễn chấp hành hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

Xét 01 xe mô tô kiểm soát 73 E1 -28703, nhãn hiệu YAMAHA Sirius, màu xanh bạc, số máy 5C6J214538, số khung C6JOGY214539, đã qua sử dụng; 01 thẻ căn cước công dân mang tên Hoàng Ngọc L; tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1.070.000 đồng không liên quan đến tội phạm nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Ba Đồn đã lập biên bản trả lại cho chủ sở hữu là đúng quy định pháp luật, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Xét 01 ống nhựa màu xanh, có sọc trắng không còn giá trị sử dụng và số ma tuý còn lại sau khi giám định được thu giữ trong vụ án là chất cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu huỷ là phù hợp với quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[8] Liên quan trong vụ án có đối tượng nam thanh niên đã bán ma túy cho bị cáo L. Tuy nhiên, quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Ba Đồn không xác định được lai lịch, địa chỉ nên chưa có căn cứ xử lý. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Ba Đồn sẽ tiếp tục điều tra, xác minh để xử lý sau.

[9] Về án phí: Xử buộc bị cáo Hoàng Ngọc L phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách nhà nước.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 và khoản 2 Điều 136; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án, về việc “Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án”.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Ngọc L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hoàng Ngọc L 13 (Mươi ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ, tạm giam 22/01/2021 Tiếp tục tạm giam bị cáo Hoàng Ngọc L với thời hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (23/6/2021) để đảm bảo thi hành án, theo quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử.

3. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo Hoàng Ngọc L.

4. Về xử lý vật chứng: Xử tịch thu tiêu hủy 01 ống nhựa màu xanh, có sọc trắng và số ma túy còn lại sau khi giám định (Các vật chứng có đặc điểm mô tả như trong Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Ba Đồn và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Ba Đồn ngày 11/5/2021).

5. Về án phí: Xử buộc bị cáo Hoàng Ngọc L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách Nhà nước.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 23/6/2021. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

135
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 24/2021/HS-ST ngày 23/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:24/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ba Đồn - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;