Bản án 24/2021/HNGĐ-ST ngày 29/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EA H’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 24/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG VÀ CẤP DƯỠNG NUÔI CON CHUNG 

Ngày 29 tháng 4 năm 2021 tại Phòng xử án - Toà án nhân dân huyện Ea H’Leo xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 410/2020/TLST - HNGĐ, ngày 10 tháng 12 năm 2020, về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 23 tháng 3 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 09/2021/QĐST-HNGĐ, ngày 12 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Tăng Thị N, sinh năm 1994; địa chỉ: Thôn 4, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; đề nghị xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1986; địa chỉ: Thôn 4, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và quá trình làm việc nguyên đơn chị Tăng Thị N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Tăng Thị N kết hôn với anh Nguyễn Văn T vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Hai người chung sống và kết hôn trên cơ sở tự nguyện có qua thời gian tìm hiểu. Trong quá trình chung sống anh chị hạnh phúc được thời gian khoảng 02 năm, sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do là anh Tuyền nghiện ma túy, không lo làm ăn, mặc dù chị N đã chịu đựng, khuyên bảo nhưng anh T vẫn không thay đổi. Nay nhận thấy không thể tiếp tục chung sống với anh Tuyền được nữa nên chị N yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Tuyền.

Về nuôi con chung: Chị N và anh T có 01 con chung là cháu Nguyễn Đình Tuấn D, sinh ngày 11/3/2013. Nếu ly hôn chị N có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu D cho đến khi đủ 18 tuổi.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị N yêu cầu anh Tuyền phải cấp dưỡng số tiền 3.000.000 đồng/tháng để nuôi cháu Nguyễn Đình Tuấn D; quá trình giải quyết vụ án chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết về cấp dưỡng.

Về tài sản chung và các khoản nợ: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đối với bị đơn anh Nguyễn Văn T: Sau khi thụ lý vụ án, Toà án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án và nhiều lần triệu tập hợp lệ anh T nhưng anh vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án không tiến hành hòa giải được theo khoản 1 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo phát biểu quan điểm về việc tuân thủ pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án về cơ bản là đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung: Căn cứ vào các chứng cứ đã được thu thập tại hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử cần chấp nhận cho chị N ly hôn với anh T; cần giao con chung là Nguyễn Đình Tuấn D cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng; về việc cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản chung, nợ chung chị N không yêu cầu nên không đề cập xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Tăng Thị N và anh Nguyễn Văn T là vợ chồng. Do mâu thuẫn trong quá trình chung sống, nên chị N khởi kiện yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung, cấp dưỡng nuôi con chung và Tòa án thụ lý giải quyết là phù hợp với khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Trong quá trình giải quyết vụ án, chị N đã rút một phần yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Căn cứ vào khoản 4 Điều 70 của Bộ luật Tố tụng dân sự, thì việc rút một phần yêu cầu khởi kiện của chị N là hoàn toàn tự nguyện và không trái pháp luật, nên cần chấp nhận.

Nguyên đơn chị Tăng Thị N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về nội dung: Chị Tăng Thị N và anh Nguyễn Văn T chung sống với nhau từ năm 2012 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk theo Giấy chứng nhận kết hôn số 171, ngày 14/12/2012. Hai người chung sống và kết hôn trên cơ sở tự nguyện có qua thời gian tìm hiểu. Trong quá trình chung sống anh chị hạnh phúc được thời gian sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh T nghiện ma túy nên xảy ra mâu thuẫn. Nay nhận thấy chị N và anh T không còn yêu thương, chăm sóc, quý trọng lẫn nhau, thực tế hôn nhân không còn tồn tại, nếu tiếp tục chung sống cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai người. Vì vậy, để giải phóng sự ràng buộc giữa hai người cần cho chị N được ly hôn với anh T.

[3] Về nuôi con chung: Chị Tăng Thị N và anh Nguyễn Văn T có 01 con chung là Nguyễn Đình Tuấn D, sinh ngày 11/3/2013. Chị N có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu.

Xét thấy, cháu D có nguyện vọng được chung sống với mẹ. Mặt khác, chị N cũng có đủ điều kiện kinh tế để trực tiếp nuôi dưỡng cháu D. Vì vậy, để đảm bảo sự chăm sóc và phát triển về mọi mặt của cháu cũng như khả năng nuôi dạy con của cả hai người, cần giao cháu D cho chị Năm trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi đủ 18 tuổi.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Tăng Thị N rút yêu cầu giải quyết về phần cấp dưỡng nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử cần đình chỉ giải quyết.

[5] Về tài sản chung và các khoản nợ: Chị Tăng Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập, xem xét.

[6] Về án phí dân sự: Cần buộc chị Tăng Thị N phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 4 Điều 70, khoản 3 Điều 144, khoản 4 Điều 147, các điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238; Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

- Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Tăng Thị N.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Tăng Thị N được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

2. Về nuôi con chung: Giao cháu Nguyễn Đình Tuấn D, sinh ngày 11/3/2013 cho chị Tăng Thị N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục đến khi đủ 18 tuổi. Anh Nguyễn Văn T có quyền đi lại, thăm nom và chăm sóc con chung không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Đình chỉ yêu cầu của chị Tăng Thị N về việc giải quyết cấp dưỡng nuôi con chung. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con.

4. Về tài sản chung và các khoản nợ: Chị Tăng Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập, xem xét.

5. Về án phí dân sự: Chị Tăng Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, số tiền này được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí mà chị N đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk theo biên lai số: AA/2019/0012317, ngày 10/12/2020.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn chị Tăng Thị N và bị đơn anh Nguyễn Văn T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

338
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 24/2021/HNGĐ-ST ngày 29/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con chung 

Số hiệu:24/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea H'leo - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;