Bản án 238/2020/HS-ST ngày 17/08/2020 về tội chứa mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 238/2020/HS-ST NGÀY 17/08/2020 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM

Trong ngày 17 tháng 8 năm 2020 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố H tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 237/2020/TLST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 237/2020/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Lê Thị O. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 10/9/1969. Nơi cư trú: Tổ 6 khu 9B phường B, thành phố H, tỉnh Quảng Ninh. Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 7/12. Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Quang P (đã chết) và bà: Hoàng Thị Q (đã chết). Chồng: Hoàng Văn Đ(đã ly hôn). Có 02 con, lớn sinh năm 2000, nhỏ sinh năm 2007. Tiền án, tiền sự: Chưa. Nhân thân: Ngày 27/02/2013 bị TAND tỉnh Quảng Ninh xử phạt 03 năm 6 tháng tù về tội « Mua bán trái phép chất ma túy ». Ngày 31/8/2015 chấp hành xong hình phạt tù. Bị tạm giữ từ ngày 15/5/2020 đến ngày 23/5/2020 thay đổi BPNC, áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt.

Người làm chứng: Vũ Thị H, Đinh Thị M, Phạm Văn H, Dương Văn K, Phạm Thị L- Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 15/5/2020, tại quán cà phê “Su Su” thuộc tổ 1 khu 10 phường B, thành phố H, Lê Thị O đã có hành vi bố trí, sắp xếp để Vũ Thị H và Đinh Thị M bán dâm cho Phạm Văn H và Dương Văn K với giá 250.000đồng/ lượt/ người thì bị công an TP H bắt quả tang..

Tại bản cáo trạng số 207/CT-VKSHL ngày 14/7/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố bị cáo Lê Thị O về tội “Chứa mại dâm" theo khoản 1 điều 327 BLHS.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 điều 327 BLHS; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS, xử phạt bị cáo Lê Thị O từ 15 (mười lăm) tháng tù đến 18(mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án, được trừ đi những ngày đã tạm giữ. Áp dụng điểm b khoản 1 điều 47 BLHS, điểm b, c khoản 2 điều 106 BLTTHS, tịch thu tiêu hủy 11 bao cao su nhãn hiệu Vip Plus chưa qua sử dụng, tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 500.000đồng.

Bị cáo Lê Thị O khai: Bị cáo có thuê nhà của Lê Thị H để kinh doanh cà phê, giải khát tại tổ 1 khu 10 phường B, thành phố H từ ngày 10/01/2018 và có đặt biển là “Cà phê Su Su”. Quá trình làm, bị cáo có thuê hai nhân viên là H (tên thường gọi là N) và M (tên thường gọi là H) làm bưng bê, pha nước cho khách. Từ Tết nguyên đán 2020 trở ra có dịch bệnh nên việc kinh doanh khó khăn, vì vậy, O thỏa thuận với H, M nếu khách có nhu cầu mua dâm thì sẽ làm để kiếm thêm thu nhập. Vào khoảng 21h 15 ngày 15/5/2020 khi có 2 khách (sau này biết là H và K) đến quán đặt vấn đề mua dâm, bị cáo đã đồng ý và sắp xếp cho H và M bán dâm cho H và K tại hai phòng ngủ trên gác xép của quán cà phê “Su Su”. Giá cả thỏa thuận là 250.000đồng/người/lượt. Bị cáo đã nhận của H 01 tờ tiền mệnh giá 500.000đồng. Đến khoảng 21giờ 30 phút cùng ngày thì công an thành phố H kiểm tra bắt quả tang H và H, K và M đang quan hệ tình dục. Bị cáo khai đây là lần đầu tiên tổ chức cho bán dâm tại quán, nếu trót lọt, bị cáo sẽ chia cho gái bán dâm 120.000đồng/lượt, bị cáo được 130.000đồng/lượt.

Người làm chứng Vũ Thị H và Đinh Thị M khai xác nhận nội dung có thỏa thuận với bị cáo O về việc H, M sẽ bán dâm khi khách có nhu cầu, và thừa nhận được chứng kiến thỏa thuận mua bán dâm giữa O và H vào tối 15/5/2020 tại quán Su Su. Sau đó H và H, K và M đi lên gác xép để quan hệ tình dục. Khi đang quan hệ tình dục thì bị bắt quả tang.

Người làm chứng Phạm Văn H và Dương Văn K khai thừa nhận hành vi mua dâm tại quán cà phê Su Su vào tối ngày 15/5/2020, trong đó H là người trực tiếp đặt vấn đề với bị cáo O về việc mua dâm cho 2 người với giá 250.000đồng/người/lượt. Bị cáo O đồng ý và bố trí 2 nhân viên nữ đang có mặt tại quán bán dâm cho H, K. Trong lúc H, K đang quan hệ tình dục với H, M thì bị công an bắt quả tang.

Người làm chứng Phạm Thị L khai: Do có quan hệ bạn bè với bị cáo O nên tối ngày 15/5/2020 chị L đến quán Su Su chơi và được chứng kiến toàn bộ sự việc từ khi H, K đến quán đặt vấn đề với O về việc mua dâm cho đến khi công an kiểm tra bắt quả tang H, K đang quan hệ tình dục với H, M.

Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 22h00 ngày 15/5/2020 thể hiện: Vào hồi 21h30 ngày 15/5/2020, công an Tp H kiểm tra quán cà phê Su Su tại tổ 1 khu 10 phường B, thành phố H do Lê Thị O làm chủ đã phát hiện bắt quả tang tại 2phòng trên gác xép, Vũ Thị H đang quan hệ tình dục với Phạm Văn H tại phòng sát tường bên trái hướng cầu thang lên gác xép, Đinh Thị M và Dương Văn K đang quan hệ tình dục tại phòng thứ 2 từ trái sang phải hướng cầu thang lên gác xép, thu giữ tại mỗi phòng 01 bao cao su đã qua sử dụng và 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu VIP plus đã bị xé. Ngoài ra còn thu giữ 11 bao cao su nhãn hiệu VIP Plus chưa qua sử dụng và 500.000đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Tại phiên toà, bị cáo Lê Thị O khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, thừa nhận do công việc bán quán cà phê ế ẩm, không có khách, vì muốn tăng thêm thu nhập nên đã thống nhất thỏa thuận với 2 nhân viên về việc bán dâm tại quán, và đã bị bắt quả tang. Lời khai này của bị cáo được xác nhận bởi lời khai của hai nhân viên là H, M.

Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng là khách mua dâm và gái bán dâm, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với vật chứng thu giữ, thấy có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 15/5/2020, tại quán cà phê “Su Su” thuộc tổ 1 khu 10 phường B, thành phố H do Lê Thị O làm chủ, Lê Thị O đã có hành vi bố trí, sắp xếp để Vũ Thị H bán dâm cho Phạm Văn H và và Đinh Thị M bán dâm cho Dương Văn K với giá 250.000đồng/ lượt/ người.

Hành vi của bị cáo Lê Thị O đã phạm tội “chứa mại dâm” theo quy Đ tại khoản 1 điều 327 BLHS như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét thấy hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới trật tự công cộng, đạo đức xã hội, nếp sống văn minh và là nguyên nhân làm lây truyền các loại vi rut gây bệnh nguy hiểm như hoa liễu, HIV/AIDS. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm nhằm tăng cường đấu tranh với nạn mại dâm- là một trong các tệ nạn xã hội, để bảo vệ sức khỏe của nhân dân, xây dựng nếp sống văn minh, lành mạnh.

[2]Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị cáo có bố đẻ là người có công với cách mạng, được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Xét thấy bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bệnh tật kéo dài, lại là lao động chính trong gia đình, trên cơ sở cân nhắc tính chất, mức độ hành vi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ nên cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[3]Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều đảm bảo khách quan, đúng quy định của pháp luật.

[4] Về vật chứng của vụ án: cơ quan điều tra đã tiêu hủy 02 bao cao su và vỏ bao cao su đã qua sử dụng. Đối với 11 bao cao su chưa sử dụng thu giữ tại quán cần tịch thu tiêu hủy. Số tiền 500.000đồng thu giữ là tiền do phạm tội mà có cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

Về hình phạt bổ sung: bị cáo hoàn cảnh khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 327; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Lê Thị O phạm tội “Chứa mại dâm”.

Xử phạt: Lê Thị O 12(mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án, được trừ đi những ngày đã tạm giữ từ ngày 15/5/2020 đến ngày 23/5/2020.

Áp dụng điểm b khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự, điểm b,c khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy 11 bao cao su nhãn hiệu VIP Plus. Tịch thu sung quỹ nhà nước số tiền 500.000đồng theo biên bản giao nhận vật chứng số 233/BB-THA ngày 21/7/2020 của Thi hành án dân sự thành phố H Áp dụng điều 136, điều 331, điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội. Buộc bị cáo Lê Thị O phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

249
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 238/2020/HS-ST ngày 17/08/2020 về tội chứa mại dâm

Số hiệu:238/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;