Bản án 63/2018/HS-ST ngày 13/08/2018 về chứa mại dâm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 63/2018/HS-ST NGÀY 13/08/2018 VỀ CHỨA MẠI DÂM

Ngày 13 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thuỷ Nguyên thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 51/2018/TLST-HS ngày 18 tháng 6 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xửsố 65 ngày 16 tháng 7 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 45 ngày 30 tháng7 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Đoàn Thị H, sinh năm 1982 tại Hải Phòng. Đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 2, xã P, huyện T, thành phố Hải Phòng; Chỗ ở hiện nay: Thôn M, xã Ph, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ôngĐoàn Văn B và bà Vũ Thị H; có chồng là Nguyễn Trọng T và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; Hiện đang bị áp dụng biên pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 09/4/2018 do bị cáo đang mang thai. (Bị cáo mang thai tuần thứ 19 khi bị khởi tố). Có mặt.

2. Nguyễn Trọng T sinh năm 1980 tại Hải Phòng. Đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 2, xã P, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; Chỗ ở hiện nay: Thôn M, xã Ph, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L và bà Đinh Thị Nh; có vợ là Đoàn Thị H và 01 con; tiền án: Bản án số 135 ngày 26/8/2016 của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng xử phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 tháng kể từ ngày tuyên án về tội Chứa mại dâm. (Chưa được xóa án tích); tiền sự: Không; Bị tạm giữ từ ngày 17/01/2018 đến ngày 19/01/2018 chuyển tạm giam. Có mặt.

3. Lại Văn H sinh năm 1989 tại Hà Nam. Đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 11, phường L, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Chỗ ở: Thôn M, xã Ph, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lại Văn B và bà Lại Thị Ch; có vợ là Phạm Thị Hồng L và 02 con. Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Bản án số 15 ngày 14/4/2009 của Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng kể từ ngày tuyên án về tội Chống người thi hành công vụ. Tháng 6 năm 2009 đã nộp án phí (đã xóa án tích). Bị tạm giữ từ ngày 13/01/2018 đến ngày 19/01/2018 chuyển tạm giam. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 12/01/2018, Phòng Cảnh sát hình sự Công an thành phố Hải Phòng (PC 45) phát hiện, bắt quả tang tại nhà nghỉ C ở thôn M, xã Ph, huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng 06 đôi nam nữ đang mua bán dâm, cụ thể: Tại phòng số 01 của nhà nghỉ, Cầm Thị K, sinh năm 1996, ở xã T, huyện V, tỉnh Lào Cai đang bán dâm cho Nguyễn Văn T, sinh năm 1977, ở xã T, huyện T; tại phòng số 02 của nhà nghỉ, Lường Thị V, sinh năm 1992, ở xã p, huyện V tỉnh Yên Bái bán dâm cho Phạm Văn T, sinh năm 1980, ở xã T, huyện T tại phòng số 03 của nhà nghỉ, Hoàng Thị C, sinh năm 1986, ở xã H huyện v, tỉnh Yên Bái bán dâm cho Đỗ Văn H, sinh năm 1984, ở xã N, huyện T; tại phòng số 04 của nhà nghỉ, M, sinh năm 1981, ở xã Đ, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên bán dâm cho Nguyễn Quốc Đ, sinh năm 1990, ở xã Q, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; tại phòng số 05 của nhà nghỉ, Đặng Thị S, sinh năm 1997, ở xã T, huyện V, tỉnh L bán dâm cho Trần Văn T, sinh năm 1992, ở xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng; tại phòng số 06 của nhà nghỉ, Đinh Thị H, sinh năm 1975, ở xã Kh, huyện B, thành phố Hà Nội bán dâm cho Nguyễn Văn H sinh năm 1992, ở xã T, huyện A, thành phố Hải Phòng. Tại quầy lễ tân của nhà nghỉ, Lại Văn H đang điều hành hoạt động mua bán dâm. Quá trình bắt giữ còn có Nguyễn Đại L, sinh năm 1990, ở xã Q, huyện A, thành phố Hải Phòng đi cùng H, Đ, T đang ngồi uống nước tại nhà nghỉ, chưa mua dâm.

Thu giữ của H 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo màu trắng và số tiền 600.000 đồng là tiền mua dâm; 01 mảnh giấy bìa hộp thuốc lá H ghi tên và số lần bán dâm trong ngày 12/01/2018 của gái bán dâm; thu tại các phòng của nhà nghỉ gồm 05 bao cao su đã qua sử dụng, 04 vỏ bao và 05 bao cao su chưa qua sử dụng.

Khám xét khẩn cấp nhà nghỉ C thu giữ: Tại quầy lễ tân 02 quyển hóa đơn bán lẻ; 60 bao cao su nhãn hiệu silven fox màu đỏ chưa qua sử dụng; tại phòng vợ chồng Nguyễn Trọng T, Đoàn Thị H 01 quyển vở học sinh bìa màu xanh, có ghi chữ “Xuân Spring” gồm 11 tờ có chữ số và nhiều tờ bị xé; tại phòng số 01 của Cầm Thị Kh một cuốn sổ ghi chép màu đen, kích thước 10x12cm trên khu vực giá để gương; tại phòng số 05 của Lê Thị Khánh Linh một quyển sổ ghi chép màu đỏ, kích thước 10x07cm trên giá để gương; tại phòng số 04 của Ma Thị Ngh một quyển sổ ghi chép kích thước 09x13cm.

Tại Cơ quan điều tra, Lại Văn H khai nhận việc mua bán dâm do Nguyễn Trọng T và vợ là Đoàn Thị H chủ nhà nghỉ điều hành. H chỉ giúp T, H quản lý hoạt động bán dâm khi T, H đi vắng. Ngày 17/01/2018, Nguyễn Trọng T bị bắt theo Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Ngày 09/4/2018, Đoàn Thị H đến Cơ quan Công an đầu thú.

Tại Cơ quan điều tra, Đoàn Thị H, Nguyễn Trọng T, Lại Văn H khai nhận:

Tháng 9 năm 2015, Nguyễn Trọng T thuê nhà của bà Đinh Thị H, sinh năm 1958, ở thôn M, xã Ph, huyện T để kinh doanh nhà nghỉ lưu trú C (có giấy phép kinh doanh). Do điều kiện kinh doanh gặp nhiều khó khăn nên khoảng tháng 11 năm 2017, T và vợ là Đoàn Thị H bàn bạc thống nhất tổ chức hoạt động mại dâm tại nhà nghỉ để kiếm tiền.

H trực tiếp liên hệ tìm được các gái bán dâm gồm: Đinh Thị H (tên thường gọi là Ng), Ma Thị N (tên thường gọi là C), Hoàng Thị C(tên thường gọi là Th), Cầm Thị Kh (tên thường gọi là M), Đặng Thị S(tên thường gọi là Y), Lường Thị V (tên thường gọi là V); Nguyễn Thị L (tên thường gọi là L To), sinh năm 1998, ở xã C, huyện L, tỉnh Hòa Bình; Lê Thị Khánh L (tên thường gọi là LBé), sinh năm 1988, ở thôn L, xã L huyện L, tỉnh Hòa Bình; L (Thái Bình) và Th(Yên Bái – hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch). H thỏa thuận với gái bán dâm giá một lần mua dâm là 200.000 đồng, gái bán dâm được hưởng 100.000 đồng, vợ chồng T H được hưởng 100.000 đồng. Sau đó, H bố trí cho các gái bán dâm trên đến ăn ở, sinh hoạt tại nhà nghỉ Chân Quê. Các gái bán dâm không phải trả tiền ăn ở, sinh hoạt. T là người đăng ký tạm trú cho các gái bán dâm tại Công an xã Ph, huyện Thủy Nguyên. Hàng ngày, khi có khách đến mua dâm, H sẽ giao dịch và thu tiền mua dâm của khách, ghi chép sổ sách, thanh toán tiền cho gái bán dâm. Những lúcH đi vắng thì T thay H thực hiện các công việc trên.

Từ tháng 11 năm 2017 đến đầu tháng 12 năm 2017, T và H đã điều hành để Đặng Thị Son bán dâm cho khách tại nhà nghỉ Chân Quê 85 lần, H thu của khách17.000.000 đồng, H trả cho Son 8.500.000 đồng còn lại 8.500.000 đồng H, T giữ lại để ăn tiêu; điều hành Nguyễn Thị Linh bán dâm 22 lần, H thu của Khách 4.400.000 đồng, trả cho Linh 2.200.000 đồng, thu lợi 2.200.000 đồng; điều hành để Lê Thị Khánh Linh bán dâm 16 lần, H thu của khách 3.200.000 đồng, trả cho Linh 1.600.000 đồng, thu lợi 1.600.000 đồng; điều hành Cầm Thị Kh bán dâm 36 lần, H thu của khách 7.200.000 đồng, trả cho Kh 3.600.000 đồng, thu lợi 3.600.000 đồng; điều hành Ma Thị Ng bán dâm 08 lần, H thu của khách 1.600.000 đồng, trả cho Ng 800.000 đồng, thu lợi 800.000 đồng. Tổng số lần T, H điều hành để Đặng Thị S, Nguyễn Thị L, Lê Thị Khánh L, Cầm Thị Kh, Ma Thị Ngh bán dâm tại nhà nghỉ Ctrong tháng 11 năm 2017 là 167 lần, thu lợi 16.700.000 đồng.

Đến đầu tháng 12 năm 2017, Lại Văn H (là em họ T) đến nhà nghỉ C. T và H thỏa thuận với H về việc H giúp vợ chồng T, H quản lý, điều hành hoạt động mại dâm tại nhà nghỉ và hứa hẹn sẽ trả công cho H, H đồng ý. H giúp T, H quản lý hoạt động bán dâm khi T, H đi vắng, cụ thể: Gọi gái bán dâm ra cho khách chọn, thông báo hết giờ khi gái và khách mua dâm quá giờ (thời gian mua bán dâm một lượt là 30 phút), ghi chép số lần bán dâm ra tích kê, thu tiền mua dâm của khách, đến cuối ngày giao lại tích kê và tiền mua dâm cho H. Sau đó, H sẽ tổng hợp vào sổ để làm căn cứ trả tiền cho gái bán dâm như đã thỏa thuận.

Từ đầu tháng 12 năm 2017 đến ngày 11/01/2018, H cùng với T, H đã điều hành để Đặng Thị Son bán dâm cho khách tại nhà nghỉ Chân Quê 80 lần, H thu của khách 16.000.000 đồng, trả cho Son 8.000.000 đồng, thu lợi 8.000.000 đồng; điều hành Đinh Thị Hạnh bán dâm 60 lần, H thu của khách 12.000.000 đồng, trả cho H6.000.000 đồng, thu lợi 6.000.000 đồng; điều hành Nguyễn Thị L bán dâm 118 lần, H thu của khách 23.600.000 đồng, trả cho Linh 11.800.000 đồng, thu lợi 11.800.000 đồng; điều hành Ma Thị Ngh bán dâm 52 lần, H thu của khách10.400.000 đồng, H trả cho Nghìn 5.200.000 đồng, thu lợi 5.200.000 đồng; điều hành Lường Thị Văn bán dâm 84 lần, H thu của khách 16.800.000 đồng, H trả choVăn 8.400.000 đồng, thu lợi 8.400.000 đồng; điều hành Linh (Thái Bình) bán dâm 34 lần, H thu của khách 6.800.000 đồng, trả cho Linh 3.400.000 đồng, thu lợi3.400.000 đồng; điều hành Th (Yên Bái) bán dâm 19 lần, H thu của khách 3.800.000 đồng, trả cho Thanh 1.900.000 đồng, thu lợi 1.900.000 đồng; điều hành Lê Thị Khánh L bán dâm 114 lần, H thu của khách 22.800.000 đồng, trả cho L11.400.000 đồng, thu lợi 11.400.000 đồng; điều hành Hoàng Thị C bán dâm 100 lần, H thu của khách 20.000.000 đồng, trả cho C 10.000.000 đồng, thu lợi 10.000.000 đồng; điều hành Cầm Thị Khu bán dâm 84 lần, H thu của khách 16.800.000 đồng, trả cho Khuyên 8.400.000 đồng, thu lợi 8.400.000 đồng. Từ đầu tháng 12 năm 2017 đến ngày 11 tháng 01 năm 2018, tổng số lần T, H cùng H đã điều hành các gái bán dâm tại nhà nghỉ C là 745 lần, thu lợi 74.500.000 đồng. Tất cả các lần điều gái đi bán dâm thu tiền, Đoàn Thị H đều ghi chép vào quyển vở học sinh bìa màu xanh, có ghi chữ “Xuân Spring” để trong phòng vợ chồng T, H(phòng đầu tiên bên phải từ cửa nhà nghỉ vào).

Đến ngày 12/01/2018, T và H đi vắng nên giao lại việc điều hành bán dâm tại nhà nghỉ cho H. Trước khi đi, H đưa cho H số tiền 500.000 đồng để trả lại khách khi đến mua dâm trả tiền chẵn. Khoảng 13 giờ cùng ngày, có một nam thanh niên (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) đến mua dâm. H đã điều S bán dâm cho nam thanh niên trên và thu 200.000 đồng. Khoảng 14 giờ cùng ngày, Phạm Văn Tuấn đến mua dâm. H điều Văn bán dâm cho Tuấn tại phòng số 2. Sau đó, Nguyễn Văn T và Đỗ Văn H đến mua dâm. H điều K bán dâm cho T tại phòng số 01, Cbán dâm cho H tại phòng số 03. H chưa thu tiền của T, T, H. Khoảng 10 phút sau, Nguyễn Đại L, Nguyễn Quốc Đg, Trần Văn T và Nguyễn Văn H đến mua dâm. H điều H, S và Ngh bán dâm cho H, T và Đ lần lượt tại các phòng số 4, 5, 6 của nhà nghỉ. Lợi không mua dâm mà ngồi uống nước chờ ở ngoài và đã trả tiền mua dâm là 600.000 đồng. Đến 14 giờ 30 cùng ngày, khi H đang đứng tại quầy lễ tân của nhà nghỉ điều hành Đinh Thị H, Ma Thị Ng, Hoàng Thị C, Cầm Thị Kh, Đặng Thị S, Lường Thị V bán dâm cho Phạm Văn T, Nguyễn Văn T, Đỗ Văn H, Nguyễn Quốc Đ, Trần Văn T và Nguyễn Văn H thì bị lực lượng Công an bắt quả tang, thu giữ cùng vật chứng như trên. Các đối tượng Phạm Văn T, Nguyễn Văn T, Đỗ Văn H đã nộp 600.000 đồng tiền thỏa thuận mua dâm cho Cơ quan điều tra.

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội “chứa mại dâm” từ thời gian tháng 11 năm 2017 đến khi bị phát hiện bắt giữ ngày 12 tháng 01 năm 2018. Bị cáo T thừa nhận là người đứng ra thuê địa điểm, xin giấy phép kinh doanh nhà nghỉ lưu trú Chân Quê và đăng ký tạm trú cho gái bán dâm. Bị cáo H liên hệ tìm gái, tuyển 07 gái bán dâm và thỏa thuận tỷ lệ chia tiền, lo chỗ ăn ở tại chỗ cho gái bán dâm, thu tiền mua dâm của khách, ghi chép sổ sách, thanh toán tiền cho gái bán dâm. Riêng bị cáo Lại Văn H khai nhận: Bị cáo và vợ chồng bị cáo T H có quan hệ họ hàng, bị cáo từ thành phố Phủ Lý tỉnh Hà Nam về Thủy Nguyên xin việc làm. Trong lúc chờ việc, bị cáo phụ giúp bị cáo T, H giao dịch giữa gái bán dâm và người mua dâm. Trong khoảng thời gian hơn 1 tháng, bị cáo giúp việc cho bị cáo H, T và không được hưởng tiền công, chỉ được lo cho ăn ở sinh hoạt hàng ngày. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp lời khai tại cơ quan điều tra, đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên đã truy tố đối với các bị cáo.

Bản cáo trạng số 63/CT-VKS ngày 15 tháng 6 năm 2018 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuỷ Nguyên thành phố Hải Phòng đã truy tố Đoàn Thị H cùng đồng bọn về tội "Chứa mại dâm” theo Điểm c, d, g Khoản 2 Điều 327 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên toà Kiểm sát viên luận tội và đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung Cáo trạng đã truy tố: Về hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng Điểm c, d, g Khoản 2 Điều 327; Điểm n, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điểm b Khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Đoàn Thị H từ 6 năm tù đến 7 năm tù về tội Chứa mại dâm. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Áp dụng Điểm c, d, g Khoản 2 Điều 327; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điểm b, h Khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 38, Điều 56, Điều 58, Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng T từ 7 năm tù đến 8 năm tù về tội Chứa mại dâm. Tổng hợp hình phạt 24 tháng tù của bản án số 135 ngày 26/8/2016 của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên thành hình phạt chung buộc bị cáo phải chấp hành. Thời hạn từ tính từ ngày tạm giữ (trừ đi 03 ngày tạm giữ của bản số 135 ngày 26/8/2016).

Áp dụng Điểm c, d, g Khoản 2 Điều 327; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điểm b Khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Lại Văn H từ 5 năm 6 tháng tù đến 6 năm tù về tội Chứa mại dâm.Thời hạn từ tính từ ngày tạm giữ.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Tịch thu tiêu hủy 71 bao cao su (trong đó có 05 bao cao suđã qua sử dụng); 04 vỏ bao cao su đều nhãn hiệu “silven fox” là tang vật của vụ án; trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A5 màu đen của Nguyễn Trọng T và 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo màu trắng của H; tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 1.200.000 đồng là tiền mua dâm của Phạm Văn T, Nguyễn Văn T, Đỗ Văn H, Nguyễn Quốc Đ, Trần Văn T và Nguyễn Văn H; truy thu số tiền 91.900.000 đồng của Đoàn Thị H, Nguyễn Trọng T được hưởng lợi từ việc chứa mại dâm.

Lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghỉ nghị án, các bị cáo trình bày nhận thức rõ hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm đã thực hiện và mong muốn nhận được sự khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thủy Nguyên và Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thủy Nguyên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Bị cáo Đoàn Thị H, Nguyễn Trọng T, Lại Văn H là người có năng lực trách nhiệm hình sự, tuy nhiên Đoàn Thị H, Nguyễn Trọng T đã sử dụng nhà nghỉ C do mình quản lý để chứa chấp Đinh Thị H, Ma Thị Ngh, Hoàng Thị C, Cầm Thị Kh, Đặng Thị S, Lường Thị V, Nguyễn Thị L, Lê Thị Khánh L, Linh (Thái Bình) và Th(Yên Bái) bán dâm 919 lần, thu lợi 91.900.000 đồng. Lại Văn H giúp sức cho H và T trong việc điều hành các gái bán dâm thực hiện việc bán dâm 752 lần, thu lợi 75.200.000 đồng. Do đó, các bị cáo đã phạm tội “Chứa mại dâm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm c, d, g Khoản 2 Điều 327 Bộ luật Hình sự năm 2015 nên chứng cứ xác định không có tội bị loại trừ.

 [3] Về tính chất, M độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, xâm phạm đạo đức, nếp sống văn minh xã hội chủ nghĩa mà còn gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Trong vụ án này có sự đồng phạm của các bị cáo nên cần phân hóa vai trò của các bị cáo để làm cơ sở cho việc quyết định hình phạt. Bị cáo H và T là người khởi xướng và thực hành tích cực. Bị cáo Lại Văn H là người giúp sức. Nhân thân bị cáo Đoàn Thị H chưa có tiền án, tiền sự, lần đầu phạm tội, là người vợ phụ thuộc vào gia đình, cùng chồng là Nguyễn Trọng T thuê địa điểm kinh doanh nhà nghỉ, lưu trú, làm ăn thua lỗ dẫn đến cùng chồng phạm tội “Chứa mại dâm”. Do hoàn cảnh xô đẩy, nhận thức pháp luật hạn chế nên bị cáo đã phạm tội nghiêm trọng. Bị cáo Nguyễn Trọng T có 01 tiền án về tội Chứa mại dâm chưa hết thời gian thử thách, bị cáo lại tiếp tục phạm tội. Bị cáo Lại văn H trong vụ án giữ vai trò giúp sức, chưa được hưởng lợi từ thu nhập bất chính, vai trò của bị cáo là thấp nhất.

 [4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; riêng bị cáo T có tiền án cũng về tội Chứa mại dâm, chưa được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà còn tiếp tục phạm tội vì thế bị cáo bị áp dụng thêm tình tiết tăng nặng là tái phạm quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

 [5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Riêng bị cáo Đoàn Thị H được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ hình sự: Người phạm tội mang thai và đầu thú quy định tại Điểm n khoản 1 Điều 51 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

 [6] Về hình phạt: Với phân tích trên, Hội đồng xét xử nhận thấy hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, buộc các bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian dài để giáo dục, ngăn ngừa chung. Tuy nhiên cũng cần xem xét đến hoàn cảnh phạm tội, nguyên nhân và nhân thân cũng như vai trò của từng bị cáo để buộc các bị cáo phải chịu hình phạt với M án cần thiết để trừng trị, giáo dục các bị cáo. Tại khoản 5 Điều 327 của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền, nhưng các bị cáo không có tài sản riêng, không có khả năng thi hành nên không phạt tiền các bị cáo.

 [7] Về vật chứng, xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Tịch thu tiêu hủy 71 bao cao su (trong đó có 05 bao cao su đã qua sử dụng); 04 vỏ bao cao su đều nhãn hiệu “silven fox” là tang vật của vụ án; trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A5 màu đen của Nguyễn Trọng T và 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo màu trắng của H; tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 1.200.000 đồng là tiền mua dâm của Phạm Văn T, Nguyễn Văn T, Đỗ Văn H, Nguyễn Quốc Đ, Trần Văn T và Nguyễn Văn H; truy thu số tiền 45.950.000 đồng của Đoàn Thị H và số tiền 45.950.000 đồng Nguyễn Trọng T hưởng lợi từ việc chứa mại dâm.

 [8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c, d, g Khoản 2 Điều 327; Điểm n, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điểm b Khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Đoàn Thị H 6 năm tù về tội Chứa mại dâm. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Căn cứ vào điểm c, d, g Khoản 2 Điều 327; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điểm b, h Khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 56, Điều 58, Khoản 5 Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng T 7 năm tù về tội Chứa mại dâm, tổng hợp hình phạt 24 tháng tù của bản án hình sự sơ thẩm số 135 ngày 26/8/2016 của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng thành 9 năm tù buộc bị cáo phải chấp hành. Thời hạn từ tính từ ngày 17/01/2018, (được trừ đi 03 ngày tạm giữ của bản án sơ thẩm số 135 ngày 26/8/2016).

Căn cứ vào điểm c, d, g Khoản 2 Điều 327; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điểm b Khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Lại Văn H 5 năm 6 tháng tù về tội Chứa mại dâm. Thời hạn tù tính từ ngày 13/01/2018.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Tịch thu tiêu hủy 71 bao cao su (trong đó có 05 bao cao su đã qua sử dụng); 04 vỏ bao cao su đều nhãn hiệu “silven fox” là tang vật của vụ án; trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A5 màu đen đã qua sử dụng cho Nguyễn Trọng T và 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo màu trắng đã qua sử dụng cho Lại Văn H; tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 1.200.000 đồng là tiền mua dâm của Phạm Văn T, Nguyễn Văn T, Đỗ Văn H, Nguyễn Quốc Đ, Trần Văn T và Nguyễn Văn H; (Chi tiết tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 11 tháng 06 năm 2018 và Biên lai thu tiền số 0007470 ngày 11 tháng 6 năm2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuỷ Nguyên); truy thu số tiền 45.950.000 đồng của Đoàn Thị H và số tiền 45.950.000 đồng Nguyễn Trọng T hưởng lợi từ việc chứa mại dâm.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án; Bị cáo Đoàn Thị H, Nguyễn Trọng T, Lại Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

737
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 63/2018/HS-ST ngày 13/08/2018 về chứa mại dâm

Số hiệu:63/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 1 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;