TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 237/2018/HC-PT NGÀY 15/06/2018 VỀ KHỞI KIỆN HỦY GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 15 tháng 6 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính Thụ lý số 217/2017/TLPT-HC ngày 15 tháng 11 năm 2017, do có kháng cáo của người khởi kiện đối với Bản án hành chính sơ thẩm số 11/2017/HCST ngày 11 tháng 8 năm 2017 của Toà án nhân dân thành phố H.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 3440/2018/QĐ-PT ngày 30 tháng 5 năm 2018 giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Bà Nguyễn Thị L;
Trú tại: số 1/18 phố P, phường H, quận K, thành phố H, có mặt.
2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân huyện T, thành phố H. Địa chỉ: Thị trấn N, huyện T, thành phố H.
Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện: Ông Bùi Doãn Nhân - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện T (được ủy quyền theo Văn bản số 9748/QĐ-UBND ngày 27/12/2017), có mặt.
3.Người có quyền lợi,nghĩa vụ liên quan:
3.1.Ông Dương Công T;
3.2. Bà Nguyễn Thị D;
Ông T và bà D đều vắng mặt, cùng ủy quyền cho anh Nguyễn Công V, có mặt.
Cùng cư trú tại: thôn M, xã K, huyện T, thành phố H;
3.3. Bà Nguyễn Thị C, vắng mặt.
3.4. Bà Nguyễn Thị Đ, có mặt.
3.5. Ông Nguyễn Công K, vắng mặt.
Cùng cư trú tại: Xã K, huyện T, thành phố H.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Ngày 30/9/2006, Ủy ban nhân dân (UBND) huyện T cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSD) đất số AG523756 cho ông Nguyễn Công T và bà Nguyễn Thị D thửa đất số 88 tờ bản đồ số 07 diện tích 1.008m2 đất ở, có nhà cấp 4 tại thôn 4 xã K, huyện T, thành phố H.
Ngày 20/5/2014, bà Nguyễn Thị L mới biết ông T và bà D được cấp GCNQSD đất số AG523756 thuộc diện tích đất thừa kế của chị em bà chưa chia. Nguồn gốc đất của ông bà nội của bà L là cố Nguyễn Công S và cố Nguyễn Thị E, có 05 người con là cụ Nguyễn Công A, cụ Nguyễn Công B, cụ Nguyễn Công C (cha của bà L), cụ Nguyễn Công M và cụ Nguyễn Thị N. Cố S và cố E có chia cho 04 người con trai, mỗi người một suất đất; năm 1960, ông bà nội chia cho cha của bà diện tích 1.008m2 thuộc thửa đất số 88; cụ A cũng được chia một phần trong thửa đất số 88. Năm 1976, khi biết tin bố của bà hy sinh thì mẹ của bà là cụ Nguyễn Thị C đi lấy chồng; mấy chị em bà sống cùng ông bà nội ở thửa đất bên cạnh thửa số 88. Năm 1985, bà và em trai là Nguyễn Công K được chính quyền cấp cho một nhà kho và năm 1986 thì 02 chị em chuyển ra đấy ở; diện tích đất của bố mẹ để lại thì vẫn canh tác trồng hoa màu và thường xuyên thu hoạch. Khi bà và ông K trưởng thành thì có cho con gái bác Nguyễn Công A (là anh trai của bố) mượn đất để xây 01 nhà 02 gian ở tạm trên diện tích đất của cha bà được chia. Năm 2014, bà L mới biết đất thừa kế của bố mẹ bà đã cấp cho vợ chồng ông Nguyễn Công T (là con của cụ A) và bà Nguyễn Thị D; việc UBND huyện T cấp GCNQSD đất cho vợ chồng ông T thuộc đất thừa kế của chị em bà là không đúng.
Ngày 21/5/2014, bà L có đơn gửi UBND huyện T.
Ngày 16/7/2014, bà L có đơn khiếu nại gửi UBND huyện T yêu cầu huỷ GCNQSD đất số AG523756 đã cấp cho ông T và bà D.
Ngày 16/10/2014, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T có Văn bản số 163/TN&MT-ĐT trả lời bà L, nội dung: Diện tích đất đang tranh chấp quyền sử dụng đất giữa bà L và hộ ông Nguyễn Công T đã được cấp GCNQSD đất thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân. Bà L khởi kiện tại Tòa án nhân dân để được giải quyết theo thẩm quyền quy định của pháp luật.
Ngày 14/4/2015, bà L có đơn khiếu nại gửi UBND huyện T.
Ngày 04/12/2015, Ủy ban nhân dân huyện T có Văn bản số 1429/UBND-TN&MT giải quyết khiếu nại có nội dung: Bà L tranh chấp đòi lại quyền sử dụng diện tích đất thổ cư của hộ ông Nguyễn Công T đang sử dụng nên căn cứ khoản 1 Điều 203 Luật đất đai 2013 thì bà L khởi kiện tại Tòa án nhân dân để được giải quyết theo thẩm quyền quy định của pháp luật.
Ngày 17/12/2015, bà L có đơn khiếu nại đến UBND huyện T, nội dung: Đề nghị thu hồi, hủy bỏ GCNQSD đất đã cấp cho ông T trái pháp luật tại thửa đất số 88 tờ bản đồ số 07, để gia đình bà L được làm thủ tục xin cấp GCNQSD đất. Xử lý những cá nhân vi phạm, buộc phải bồi thường những thiệt hại do làm trái pháp luật gây ra.
Ông Nguyễn Công T và bà Nguyễn Thị D có ý kiến: Cụ Nguyễn Công A là cha đẻ của ông Nguyễn Công T có diện tích đất 988m2 tại thửa 88, tờ bản đồ 07 đã được đăng ký trong sổ mục kê năm 1985. Cụ A chết không để lại di chúc; năm 2006, gia đình ông T họp và thống nhất giao cho vợ chồng ông sử dụng diện tích đất nêu trên; ông làm thủ tục để cấp GCNQSD đất. Ngày 30/9/2006, UBND huyện T cấp GCNQSD đất số AG523756 cho ông T và bà D thửa đất số 88 tờ bản đồ số 07 diện tích 1.008m2 đất ở, có nhà cấp 4 tại thôn 4 xã K; việc gia đình ông được cấp GCNQSD đất là đúng trình tự, thủ tục quy định của pháp luật.
Ngày 09/9/2016, bà Nguyễn Thị L khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân thành phố H yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG523756 của Ủy ban nhân dân huyện T cấp cho ông Nguyễn Công T và bà Nguyễn Thị D.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 11/2017/HCST ngày 11/8/2017, Tòa án nhân dân thành phố H đã quyết định: Bác yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L về hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG523756 của Ủy ban nhân dân huyện T mang tên Nguyễn Công T và Nguyễn Thị D ở địa chỉ xã K, huyện T, thành phố H.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 24/8/2017, bà Nguyễn Thị L có đơn kháng cáo đề nghị hủy Bản án hành chính sơ thẩm số 11/2017/HCST ngày 11/8/2017 của Tòa án nhân dân thành phố H.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bà Nguyễn Thị L có ý kiến: Ủy ban nhân dân huyện T cấp GCNQSD đất số AG523756 ngày 30/9/2006 cho ông T và bà D thuộc thửa đất số 88 tờ bản đồ số 07 diện tích 1.008m2 đất ở là đất thừa kế của chị em bà chưa chia không đúng trình tự, thủ tục cấp GCNQSD đất, ảnh hưởng đến quyền lợi của gia đình bà; đề nghị hủy GCNQSD đất số AG523756 ngày 30/9/2006.
Đại diện người bị kiện có ý kiến: Trình tự thủ tục cấp GCNQSD đất cho hộ gia đình ông Nguyễn Công T là đúng quy định của pháp luật. Sổ mục kê năm 1985 thể hiện cụ Nguyễn Công A là chủ sử dụng diện tích đất thổ cư tại thửa 88 diện tích 988m2. Theo bản đồ giải thửa 299 thửa số 88 của hộ cụ A có vị trí nằm liền kề về phía Nam của thửa đất số 118 của hộ cụ Nguyễn Thị C (mẹ của bà L). Theo hồ sơ cấp GCNQSD đất thể hiện ông Nguyễn Công T được các thành viên thuộc hàng thừa kế thứ nhất của cụ A họp gia đình phân chia quyền sử dụng đất vào ngày 21/6/2006 và đã được UBND huyện T cấp GCNQSD đất. Bà L yêu cầu hủy GCNQSD đất của hộ ông T là không có căn cứ.
Về trình tự giải quyết khiếu nại: Nội dung của Văn bản số 163/TN&MT-ĐT ngày 16/10/2014 của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T và Văn bản số 1429/UBND-TN&MT ngày 04/12/2015 của UBND huyện T hướng dẫn bà L khởi kiện tại Tòa án nhân dân vì tranh chấp đất đã có GCNQSD đất thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội nêu quan điểm giải quyết vụ án: Nguồn gốc đất của cố S và cố E; diện tích đất của 02 cố chia cho 4 người con là cụ A, cụ B, cụ C, cụ M nhưng không chia diện tích cụ thể. Cụ M và cụ B không sử dụng đất nên để lại cho cụ A sử dụng. Phần diện tích đất của cụ C được mẹ con cụ C quản lý và sử dụng đến năm 1976 thì cụ C đi lấy chồng; chị em bà L chuyển về sinh sống cùng ông bà nội ở thửa đất bên cạnh. Năm 1985, chị em bà L được Hợp tác xã cấp cho diện tích đất khác ở sân kho, thể hiện trên sổ mục kê năm 1985 là thửa số 140 mang tên K. Ngày 14/12/2007, UBND huyện T đã cấp GCNQSD đất số AK651706 cho hộ ông K với diện tích 538m2 tại thửa số 140.
Theo xác nhận của ông Lê Thế R (nguyên là chủ nhiệm HTX K và nguyên là Chủ tịch UBND xã K giai đoạn 1980-1990): cụ Nguyễn Công A và cụ Nguyễn Thị C sinh được 03 người con, chị cả là G đi lấy chồng, mẹ đi xuất giá, còn lại 02 chị em. Cụ S có 1 đám đất ở chia cho 04 người con trai. Năm 1970, Hợp tác xã xét thấy đất của 04 người quá chật nên đã cấp cho cụ B ra chỗ ở khác; Cụ C được chia 1 đám đất bên cạnh anh cả là cụ A. Năm 1985, khi 03 gian nhà tre dột nát, đất ở hẹp; so với nghị quyết của đại hội xã viên mỗi hộ đất ở phải có 1 sào 5 thước đến 1 sào 10 thước, khu dân cư nào chật tự nguyện xin ra thì Hợp tác xã cấp cho 1 sào 10 thước, còn đất cũ Hợp tác xã giãn cho người xung quanh. Năm 1985, Ban chủ nhiệm Hợp tác xã xét hoàn cảnh của ông K và đồng ý cho ông K một cái nhà kho xây bằng gạch lợp ngói đỏ và 3/4 cái sân vôi để ở, không thu một khoản tiền nào. Đất ở cũ, Hợp tác xã thu hồi và giãn cho ông Nguyễn Công A và vợ là Nguyễn Thị Đ.
Thời điểm năm 1985, cụ C và bà G không còn ở xã K. Bà L và ông K đã được Hợp tác xã cấp cho diện tích đất khác ở sân kho không thu tiền, phần đất của cụ C thì Hợp tác xã thu hồi giao cho cụ A thể hiện ở sổ mục kê năm 1985, tờ bản đồ số 07, thửa số 88 tên chủ hộ Giản diện tích 988m2. Theo Biên bản chuyển quyền sử dụng đất ở lập ngày 10/5/1990 của Ban quản lý đất đai xã K, theo sổ mục kê năm 1985 thửa số 88, tờ bản đồ số 07, diện tích 988m2 chủ sử dụng Nguyễn Công A; căn cứ vào thực tế sử dụng và theo đề nghị của gia đình đã nhất trí sửa lại sổ địa chính như sau: số thửa 88=988m2, Nguyễn Thị Đ (vợ của cụ A) chủ hộ. Theo quy định của pháp luật đất đai nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của nhà nước. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bà L.
Đối với phần đất của cụ A: Năm 2006, các thành viên thuộc hàng thừa kế của cụ A đã tiến hành họp gia đình và thống nhất chia diện tích 1.008m2 cho ông Nguyễn Công T. Ngày 09/5/2006, ông T có đơn xin cấp GCNQSD đất theo đúng trình tự thủ tục quy định của pháp luật. Ông T có giấy tờ hợp pháp về thừa kế nên có đủ điều kiện để được cấp GCNQSD đất theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003. UBND huyện T đã cấp GCNQSD đất cho hộ ông T là đúng quy định của pháp luật, nên không chấp nhận kháng cáo của bà L. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính bác kháng cáo của bà Nguyễn Thị L.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu và chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:
[1]. Về tố tụng:
Ngày 21/5/2014, bà Nguyễn Thị L biết ông Nguyễn Công T và bà Nguyễn Thị D được UBND huyện T cấp GCNQSD đất số AG523756 ngày 30/9/2006 thửa đất số 88 tờ bản đồ số 07 diện tích 1.008m2 đất ở, có nhà cấp 4 tại thôn 4 xã K, huyện T, thành phố H. Ngày 16/7/2014, bà L có đơn khiếu nại gửi UBND huyện T yêu cầu huỷ GCNQSD đất đã cấp cho ông T và bà D. Ngày 16/10/2014, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T ban hành Văn bản số 163/TN&MT-ĐT trả lời bà L. Ngày 14/4/2015, bà L có đơn khiếu nại gửi UBND huyện T. Ngày 04/12/2015, UBND huyện T có Văn bản số 1429/UBND- TN&MT giải quyết khiếu nại của bà L. Ngày 09/9/2016, bà L khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân thành phố H yêu cầu hủy GCNQSD đất số AG523756 của UBND huyện T.
Tòa án nhân dân thành phố H thụ lý, giải quyết là đúng theo quy định tại Điều 30, Điều 32, khoản 3 Điều 116 Luật tố tụng hành chính.
[2]. Về nội dung:
[2.1]. Cố Nguyễn Công S và cố Nguyễn Thị E có chia đất cho 4 người con là cụ A, cụ B, cụ C (là cha của bà L), cụ M nhưng không chia diện tích cụ thể. Năm 1969, cụ M xây dựng gia đình về Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh sinh sống. Năm 1970, cụ B chuyển ra ngoài ở thì diện tích đất của cụ B và cụ M để lại cho cụ A sử dụng. Phần diện tích đất của cụ C được chia do mẹ con bà L quản lý và sử dụng; đến năm 1976 khi biết cha bà L hy sinh thì mẹ bà L đi lấy chồng; chị em bà L chuyển về sinh sống cùng ông bà nội ở thửa đất bên cạnh. Năm 1985, chị em bà L là gia đình chính sách nên được Hợp tác xã cấp cho diện tích đất khác ở sân kho không thu tiền; thể hiện trên sổ mục kê năm 1985 là thửa số 140 mang tên K. Diện tích đất cụ C được chia thì Hợp tác xã thu và cấp giãn dân cho gia đình cụ A. Ngày 14/12/2007, UBND huyện T đã cấp GCNQSDĐ số AK651706 cho hộ ông K với diện tích 538m2 tại thửa số 140.
[2.2]. Theo xác nhận của ông Lê Thế R (nguyên là chủ nhiệm HTX K và nguyên là Chủ tịch UBND xã K giai đoạn 1980-1990): Cụ S có 01 đám đất ở chia cho 04 người con trai. Năm 1970, Hợp tác xã xét thấy đất của 04 người quá chật nên đã cấp cho ông B ra chỗ ở khác. Ông C được chia 01 đám đất bên cạnh anh cả là A. Năm 1985, Ban chủ nhiệm Hợp tác xã đồng ý cho anh K một nhà kho xây bằng gạch lợp ngói đỏ và 3/4 cái sân vôi để ở, không thu tiền một khoản tiền nào; đất ở cũ của chị em bà L, Hợp tác xã thu hồi và giãn cho ông Nguyễn Công A và vợ là Nguyễn Thị Đ.
Như vậy, thời điểm năm 1985, cụ C và bà G không còn ở xã K; bà L và ông K đã được Hợp tác xã cấp cho diện tích đất khác ở sân kho không thu tiền, chị em bà L chuyển ra ở diện tích được cấp năm 1986; phần đất của cụ C thì Hợp tác xã thu hồi giao cho gia đình cụ A thể hiện ở sổ mục kê năm 1985, tờ bản đồ số 07, thửa số 88 tên chủ hộ A diện tích 988m2.
Tại Biên bản chuyển quyền sử dụng đất ở lập ngày 10/5/1990 của Ban quản lý đất đai xã K căn cứ vào Hội nghị ngày 19/02/1990 của Thường trực UBND xã K họp chuyên đề về giải quyết đất đai trong đó có hộ bà Nguyễn Thị Đ. Đoàn đã tiến hành xem xét hiện trường và bản đồ sổ địa chính lập năm 1985: tờ bản đồ số 7 Nguyễn Công A số thửa 88=988m2; căn cứ vào thực tế hiện trạng và đề nghị của gia đình Ban quản lý đất đai đã nhất trí sửa lại sổ địa chính như sau: số thửa 88=988m2 Nguyễn Thị Đ chủ hộ. Đất của cụ C đã bị thu hồi và cấp giãn dân cho gia đình cụ A, theo bản đồ địa chính năm 1985 thì cụ A đứng tên thửa số 88 diện tích 988m2, đến năm 1990 đổi cụ Nguyễn Thị Đ (vợ của cụ A) đứng tên kê khai sổ địa chính của xã. Theo quy định của pháp luật đất đai nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của nhà nước. Mặt khác, bà L cho rằng đất của chị em bà cho gia đình cụ A mượn, nhưng bà L không có chứng cứ chứng minh; trong các thời kỳ đăng ký kê khai quyền sử dụng đất thì gia đình bà L cũng không đăng ký kê khai đối với diện tích đất nêu trên. Nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bà L.
[2.3]. Về trình tự, thủ tục cấp GCNQSD đất của hộ gia đình ông T: Năm 2006 các thành viên thuộc hàng thừa kế của cụ A đã tiến hành họp gia đình và thống nhất chia diện tích 1.008m2 cho ông Nguyễn Công T. Ngày 09/5/2006, ông T có đơn xin cấp GCNQSD đất theo đúng trình tự thủ tục quy định của pháp luật. Ông T có giấy tờ hợp pháp về thừa kế nên có đủ điều kiện để được cấp GCNQSD đất theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003; UBND huyện T đã cấp GCNQSD đất cho hộ ông T là đúng quy định của pháp luật, nên không chấp nhận kháng cáo của bà L.
[3]. Án phí: Theo quy định tại điểm đ Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bà Nguyễn Thị L là con liệt sĩ được miễn nộp tiền án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính năm 2015.
1. Bác kháng cáo của bà Nguyễn Thị L giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 11/2017/HCST ngày 11/8/2017 của Tòa án nhân dân thành phố H, cụ thể:
Bác yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị L về hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG523756 của Ủy ban nhân dân huyện T mang tên Nguyễn Công T và Nguyễn Thị D ở địa chỉ xã K, huyện T, thành phố H.
2. Án phí: Bà Nguyễn Thị L không phải nộp tiền án phí hành chính phúc thẩm; hoàn trả cho bà L 300.000 đồng khoản tiền đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số 0003889 của Cục Thi hành án dân sự thành phố H.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 237/2018/HC-PT ngày 15/06/2018 về khởi kiện huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 237/2018/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 15/06/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về