Bản án 23/2020/HNGĐ-ST ngày 08/05/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 23/2020/HNGĐ-ST NGÀY 08/05/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 08 tháng 5 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 09/2020/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 01 năm 2020 về việc “Tranh chấp Hôn nhân và Gia đình”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 3 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Vương Trọng Th, sinh năm 1991. Có mặt. Trú tại: Xóm B, xã C, huyện Y, tỉnh Nghệ An.

2. Bị đơn: Chị Đặng Thị T, sinh năm 1991. Vắng mặt.

Địa chỉ HKTT trước khi xuất cảnh: Xóm Bùi Bùi, xã C, huyện Y, tỉnh Nghệ An.

Hiện đang sinh sống và làm việc tại: CHLB Đức.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ đơn xin ly hôn, bản tự khai, lời trình bày của nguyên đơn Anh Vương Trọng Th: Anh Vương Trọng Th và chị Đặng Thị T tìm hiểu và đến với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã C, huyện Y, tỉnh Nghệ An vào ngày 27/6/2016. Sau khi kết hôn hai vợ chồng về sinh sống tại nhà chồng. Trong quá trình chung sống với nhau thì xẩy ra nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tìm hiểu nhau không rõ, chưa tìm hiểu hết tính cách của nhau. Sau khi sống chung thì hai vợ chồng nhận thấy vợ chồng không hòa hợp về mọi mặt, không tìm được tiếng nói chung, vợ chồng xẩy ra nhiều mâu thuẫn, cái vã, gây khó chịu cho nhau. Mâu thuẫn ngày càng sâu sắc và trầm trọng dẫn đến hôn nhân đổ vỡ. Vợ chồng mất hết tình cảm. Mặc dù đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Vì vậy hai vợ chồng đã sống ly thân nhau từ năm 2018 đến nay. Vào tháng 9/2018 chị Đặng Thị T đã bỏ đi nước ngoài làm việc tại Cộng hòa liên bang Đức (CHLB Đức) đi theo con đường bất hợp pháp. Sau khi sang Đức thì vẫn liên lạc về với Anh Th và bố mẹ đẻ của chị T thông qua mạng xã hội để hỏi thăm sức khỏe con chung. Không nói chuyện với Anh Th về địa chỉ của chị T ở đâu cả. Anh Th xác định tình cảm hiện tại không còn, hôn nhân giữa vợ chồng không còn. Do tình cảm không còn, Anh Vương Trọng Th làm đơn xin ly hôn với chị Đặng Thị T.

Về con chung: Vơ chông có 01 con chung là cháu Vương Quốc Anh, sinh ngày 08/7/2016. Hiện tại cháu Anh đang ở với bố là Anh Vương Trọng Th, do Anh Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ly hôn, nguyện vọng của Anh Th muốn được tiếp tục chăm sóc cháu Anh đến khi cháu đủ 18 tuổi, trưởng thành. Anh Vương Trọng Th không yêu cầu chị Đặng Thị T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ: Tài sản chung và nợ chung vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về phía bị đơn chị Đặng Thị T: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã gửi các văn bản như: Đơn khởi kiện, tài liệu kèm theo đơn khởi kiện và bản tự khai của Anh Vương Trọng Th; thông báo thụ lý vụ án; giấy triệu tập; quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định hoãn phiên tòa cho chị Đặng Thị T thông qua ông Đặng Văn Ba (bố đẻ của chị T), nhưng hiện tại chị Đặng Thị T vắng mặt không có lý do và cũng không có ý kiến gì.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã yêu cầu ông Đặng Văn Ba (bố đẻ của chị T) cung cấp địa chỉ, tin tức của chị T cho Tòa án nhưng ông Ba không cung cấp cũng không thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho chị T biết, nên đề nghị Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo đúng thủ tục chung.

Về nội dung: Về quan hệ hôn nhân cần áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho Anh Vương Trọng Th và chị Đặng Thị T được ly hôn.

Về con chung: Giao con chung cháu Vương Quốc Anh, sinh ngày 08/7/2016 cho Anh Vương Trọng Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi cháu đủ 18 tuổi, trưởng thành.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Th không yêu cầu chị T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Dành quyền khởi kiện cho Anh Vương Trọng Th khi có yêu cầu.

Về tài sản, nợ: Anh Vương Trọng Th không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị không xem xét. Dành quyền khởi kiện cho các đương sự khi có yêu cầu.

Về án phí sơ thẩm: Anh Vương Trọng Th phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ, trên cơ sở xem xét đầy đủ các chứng cứ, ý kiến của các bên đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Vương Trọng Th chỉ cung cấp được địa chỉ nơi cư trú cuối cùng ở Việt Nam của chị Đặng Thị T mà không cung cấp được địa chỉ của bị đơn ở nước ngoài. Qua xác minh tại bố đẻ chị T là ông Đặng Văn Ba thì ông Ba cho biết vẫn có liên hệ với chị T qua mạng xã hội Facebook và zalo. Tòa án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà thân nhân của họ cũng không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Tòa án cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho bị đơn biết. Vì vậy, Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung:

[2.1] Anh Vương Trọng Th và chị Đặng Thị T kết hôn trên cơ sở tình yêu tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện Y, tỉnh Nghệ An là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống với nhau xẩy ra nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tìm hiểu nhau không kỹ, chưa tìm hiểu hết tính cách của nhau. Sau khi sống chung thì hai vợ chồng nhận thấy vợ chồng không hòa hợp về mọi mặt, không tìm được tiếng nói chung, vợ chồng xẩy ra nhiều mâu thuẫn, cãi vã, gây khó chịu cho nhau. Mâu thuẫn ngày càng sâu sắc và trầm trọng dẫn đến hôn nhân đổ vỡ. Vợ chồng mất hết tình cảm. Mặc dù đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Vì vậy hai vợ chồng đã sống ly thân nhau từ năm 2018 đến nay. Vào tháng 9/2018 chị Đặng Thị T đã bỏ đi nước ngoài làm việc tại Cộng hòa liên bang Đức (CHLB Đức) đi theo con đường bất hợp pháp. Sau khi sang Đức thì vẫn liên lạc về với Anh Th và bố mẹ đẻ của chị T thông qua mạng xã hội để hỏi thăm sức khỏe con chung. Anh Th xác định tình cảm hiện tại không còn nên làm đơn xin ly hôn với chị Đặng Thị T. Xét thấy, mâu thuẫn giữa Anh Th và chị T đã trầm trọng, đời sống chung vợ chồng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không thể đạt được. Vì vậy, cần áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình giải quyết cho Anh Vương Trọng Th và chị Đặng Thị T được ly hôn.

[2.2] Về con chung: Anh Vương Trọng Th và chị Đặng Thị T có 01 con chung, cháu tên là Vương Quốc Anh, sinh ngày 08/7/2016. Hiện tại cháu Anh đang ở với Anh Vương Trọng Th, do Anh Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ly hôn, nguyện vọng của Anh Th muốn được tiếp tục chăm sóc cháu Anh đến khi cháu đủ 18 tuổi, trưởng thành. Anh Vương Trọng Th không yêu cầu chị Đặng Thị T phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy, hiện nay chị Đặng Thị T không có mặt tại địa phương, nên cần giao cháu Vương Quốc Anh cho Anh Vương Trọng Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp, đúng với quy định tại khoản 2 điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, hiện nay Anh Th chưa yêu cầu chị T phải cấp dưỡng nên cần chấp nhận và dành quyền khởi kiện cho Anh Th khi có yêu cầu.

[2.3] Về tài sản chung, nợ: Anh Vương Trọng Th không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Anh Vương Trọng Th phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 2 Điều 207; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 147 và Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho Anh Vương Trọng Th và chị Đặng Thị T được ly hôn.

- Về con chung: Giao con chung cháu Vương Quốc Anh, sinh ngày 08/7/2016 cho Anh Vương Trọng Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi cháu đủ 18 tuổi, trưởng thành. Chị Đặng Thị T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, dành quyền khởi kiện cho Anh Vương Trọng Th khi có yêu cầu.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét. Dành quyền khởi kiện cho các đương sự khi có yêu cầu.

- Về án phí: Anh Vương Trọng Th phải chịu 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được khấu trừ 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Cục thi hành án tỉnh Nghệ An theo biên lai số AA/2019/0003174 ngày 09/01/2020.

- Anh Vương Trọng Th có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Chị Đặng Thị T có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 23/2020/HNGĐ-ST ngày 08/05/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:23/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;