Bản án 23/2020/DS-PT ngày 26/05/2020 về tranh chấp quyền sở hữu tài sản là quyền sử dụng đất và tranh chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 23/2020/DS-PT NGÀY 26/05/2020 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN LÀ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ TRANH CHẤP GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 26 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 91/2019/TLPT-DS ngày 17 tháng 12 năm 2019 về “Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản là quyền sử dụng đất và tranh chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, Do bản án dân sự sơ thẩm số 15/2019/DS-ST ngày 14/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil bị kháng cáo và bị kháng nghị.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 17/2020/QĐ-PT ngày 06-3-2020 và thông báo thay đổi lịch phiên tòa số 17/2020/TB-DS ngày 24-3-2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Đào Xuân Y và bà Ngô Thị N

Địa chỉ: Số 97 đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk – Vắng mặt.

- Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Chị Đào Thị Minh P (Giấy ủy quyền ngày 17/11/2017); địa chỉ: D32 Huy Cận, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk – Có mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư Nguyễn Đình H - Chi nhánh Công ty Luật TNHH MTV T tại Đắk Lắk, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk; địa chỉ: 159 Lê Thánh Tông, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk – Có mặt.

2. Bị đơn:

Anh Đào Minh D – vắng mặt Chị Trần Thị T1 – có mặt

Cùng địa chỉ: Số 25 đường số 5, thôn 1, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

- Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Anh Lê Quang Tr (Giấy ủy quyền ngày 21/12/2017); địa chỉ: Số 166 Phan Chu Trinh, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk – Có mặt.

3. Những người làm chứng: Ông Bùi Long L và bà Nguyễn Thị Th; địa chỉ: Tổ dân phố 12, thị trấn Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông – vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Theo đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:

Tháng 7/1999, ông Đào Xuân Y là chủ đại lý X có giao dịch mua bán phân bón với đại lý L tại thị trấn M do ông Bùi Long L và bà Nguyễn Thị T làm chủ.

Tháng 9/2000, do sự thay đổi về chính sách thuế của Nhà nước, bắt buộc các đại lý phân bón phải chuyển đổi sang hình thức doanh nghiệp, ông Y thành lập Doanh nghiệp tư nhân thương mại dịch vụ X (sau đây viết tắt là Doanh nghiệp) để tiện hoạt động và thực hiện các thủ tục pháp lý. Lúc này, anh Đào Minh D là con trai ông Y được cử đại diện đứng tên chủ doanh nghiệp theo giấy tờ và được trả lương để thực hiện các công việc được giao. Về bản chất, doanh nghiệp hoạt động giống đại lý, các nguồn vốn, đối tác, địa bàn kinh doanh…đều dựa trên nền tảng sẵn có của đại lý từ trước; các vấn đề liên quan đến điều hành, hoạt động của doanh nghiệp đều do ông Y và vợ là bà Ngô Thị N thực hiện; các công nợ cũng chuyển từ đại lý sang doanh nghiệp.

Do đại lý L T không có khả năng trả nợ nên doanh nghiệp X đã khởi kiện ra Tòa án. Tại bản án số 47/DSPT ngày 11/4/2002 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã tuyên buộc ông Bùi Long L và bà Nguyễn Thị T phải thanh toán cho doanh nghiệp tư nhân X số tiền 171.950.169đ.

Do ông bà L T không tự nguyện thi hành số tiền trên và sau 3 lần bán đấu giá tài sản không có người mua, ngày 03/10/2002, cơ quan thi hành án dân sự huyện Đắk Mil đã ban hành quyết định cưỡng chế thi hành án số 10/THA, thu hồi tài sản đã kê biên của ông bà L T (căn nhà số 43 đường Nơ Trang Lơng, khối 12, thị trấn Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông) để giao cho doanh nghiệp.

Sau khi nhận được tài sản, ông D là chủ doanh nghiệp trên giấy tờ đã làm các thủ tục đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2005, sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 019667 ngày 17/10/2005, thửa đất số 156, tờ bản đồ số 03, diện tích 3830m2 đứng tên Đào Minh D và Nguyễn Thị Th, ông D đã giao cho ông Y, bà N quản lý giấy chứng nhận.

Tháng 10/2017, ông Y, bà N yêu cầu ông D, bà T1 sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên nhưng ông D, bà T1 không đồng ý, do đó, ông bà khởi kiện yêu cầu ông D, bà T1 phải trả lại tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất nói trên.

2. Bị đơn ông Đào Minh D và bà Trần Thị T1, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn anh Lê Quang Tr trình bày:

Ông bà thừa nhận các nội dung sự việc như nguyên đơn trình bày. Tuy nhiên, tài sản hiện đang tranh chấp là do ông D, bà T1 đứng tên, nhận được qua việc thi hành án khoản nợ của doanh nghiệp do ông D làm chủ bằng bản án số 47/DSPT ngày 11/4/2002 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã có hiệu lực. Do đó, ông Y, bà N khởi kiện yêu cầu sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông D, bà T1 không đồng ý.

Ngày 17/01/2018, ông D và bà T1 có đơn yêu cầu phản tố, đề nghị Tòa án buộc ông Y, bà N phải trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên cho ông D, bà T1.

Tại bản án sơ thẩm số 15/2019/DS-ST ngày 14/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil đã quyết định:

Căn cứ khoản 2 Điều 26; Điều 35; Điều 39; khoản 3 Điều 45; Điều 147 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng Điều 8, Điều 158, Điều 159, Điều 161, Điều 164, Điều 221, Điều 222 và Điều 223 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 136 Luật đất đai năm 2003 sửa đổi bổ sung năm 2009; Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đào Xuân Y và bà Ngô Thị N. Buộc ông Đào Minh D, bà Trần Thị T1 phải có nghĩa vụ sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 156, tờ bản đồ số 03, diện tích 3.830m2 đã được Uỷ ban nhân dân huyện Đắk Mil cấp giấy chứng nhận số AD 060022 ngày 17/10/2005 từ ông Đào Minh D, bà Trần Thị T1 sang tên ông Đào Xuân Y và bà Ngô Thị N - Về thời hạn thi hành: Theo trình tự thi hành án dân sự.

Kiến nghị Ủy ban nhân dân huyện Đắk Mil thu hồi, điều chỉnh và cấp giấy chứng nhận giấy chứng nhận quyền sử đất đối với thửa đất số 156, tờ bản đồ số 03, diện tích 3.830m2 đã được Uỷ ban nhân dân huyện Đắk Mil cấp giấy chứng nhận số AD 060022 ngày 17/10/2005 khi các đương sự có đơn yêu cầu.

- Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Đào Minh D và bà Trần Thị T buộc ông Đào Xuân Y và bà Ngô Thị N trả lại giấy chứng nhận số AD 060022 ngày 17/10/2005 đối với thửa đất số 156, tờ bản đồ số 03, diện tích 3.830m2 đã được Uỷ ban nhân dân huyện Đắk Mil cấp giấy chứng nhận số AD 060022 ngày 17/10/2005 từ ông Đào Minh D, bà Trần Thị T1.

- Về án phí: Buộc ông Đào Minh D và bà Trần Thị T phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí phản tố đã nộp 300.000 đồng theo biên lai số 0000815, ngày 23/01/2019 và trả lại cho ông ông Đào Xuân Y và bà Ngô Thị N số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 00004950, ngày 14/11/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đắk Mil.

Ngoài ra, bản án còn quyết định về chi phí tố tụng và thông báo quyền kháng cáo đối với nguyên đơn, bị đơn, người đại diện theo uỷ quyền và luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn.

Ngày 25/10/2019, bị đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Ngày 29/10/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil kháng nghị theo hướng đề nghị Tòa án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.

Ngày 31/3/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil rút toàn bộ kháng nghị.

Ti phiên tòa phúc thẩm, người bảo vệ quyền và lợi ích của nguyên đơn, luật sư Nguyễn Đình H trình bày:

Đi lý X cũng như doanh nghiệp X thực chất là mô hình hoạt động gia đình; ba, mẹ làm chủ và điều hành, các con cùng làm chung và hưởng lương. Ông D chỉ là người được ba mẹ cử đại diện cho doanh nghiệp trên giấy tờ và được trả lương, mọi vấn đề nguồn vốn, kinh doanh và hoạt động của doanh nghiệp thực chất đều do ông Y, bà N quản lý và quyết định.

Tài sản đang tranh chấp được thi hành từ khoản nợ của đại lý X chuyển qua cho doanh nghiệp. Năm 2005, khi ông D nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì giao lại cho bố mẹ là ông Y, bà N quản lý. Ông bà giao lại tài sản cho con trai anh Đào Văn K quản lý. Năm 2017 anh K bị bệnh mất thì ông Y, bà N quản lý lại và cho anh H thuê. Mặt khác, từ khi thành lập năm 2000 cho đến năm 2009, doanh nghiệp không hoạt động nữa nhưng chưa làm thủ tục giải thể thì chuyển sang Công ty TNHH TM X thì vốn, đối tác kinh doanh, nghĩa vụ nợ từ doanh nghiệp cũng được gia đình ông Y, bà N cùng nhau điều hành, quản lý và thanh toán. Do đó, thửa đất số 156, tờ bản đồ số 03, tọa lạc tại số 43, đường Nơ Trang Lơng, khối 12, thị trấn Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông là tài sản của ông Y, bà N chứ không phải là của ông D, bà T1.

Ti phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn anh Lê Quang Tr trình bày:

Tài sản hiện đang tranh chấp là tài sản của doanh nghiệp có được thông qua thi hành bản án có hiệu lực pháp luật. Tài sản này đứng tên ông D là chủ doanh nghiệp và bà T1 vợ ông D. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông D, bà T1 là hoàn toàn đúng với quy định của pháp luật, cụ thể: Điều 99 Luật doanh nghiệp năm 1999 và Điều 27, Điều 34 của Luật hôn nhân gia đình năm 2000. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Y, bà N và buộc ông Y, bà N phải trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông D, bà T1.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông giữ nguyên quan điểm rút quyết định kháng nghị số 17/QĐKNPT-VKS-DS ngày 29/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil và phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án như sau: Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục tố tụng trong việc xét xử vụ án; các bên đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật; về nội dung: Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ Luật tố tụng dân sự, đề nghị HĐXX không chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu lưu trong hồ sơ và kết quả xét hỏi, tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1]. Về tố tụng:

Bị đơn nộp đơn kháng cáo trong thời hạn luật định, đã đóng tạm ứng án phí đầy đủ, vì vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông giải quyết theo thủ tục phúc thẩm là đúng quy định.

[2]. Xét kháng cáo của bị đơn đối với toàn bộ bản án sơ thẩm

[2.1]. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn phải sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

[2.1.1]. Nguyên đơn ông Y bà N yêu cầu ông D, bà T1 phải sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên ông D, bà T1 sang cho ông bà.

Tuy nhiên, thay đổi tên chủ tài sản (trường hợp này là thay đổi tên chủ sở hữu trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) thực chất là thủ tục đăng ký biến động đất đai được quy định tại khoản 4 Điều 95 Luật Đất đai 2013. Theo quy định này, đăng ký biến động đất đai được thực hiện trong các trường hợp chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, tặng cho... quyền sử dụng đất; thay đổi mục đích, thời hạn, hình thức sử dụng đất... Đây là thủ tục hành chính, không phải là quan hệ pháp luật thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ti Thông báo thụ lý vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản” là không rõ ràng. Sau khi ban hành thông báo thay đổi quan hệ pháp luật, Tòa án sơ thẩm xác định quan hệ là “Tranh chấp quyền sở hữu tài sản là quyền sử dụng đất”, nhưng tại phần quyết định của bản án lại tuyên buộc bị đơn phải có nghĩa vụ sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nguyên đơn. Như vậy, cấp sơ thẩm đã xác định không đúng và không thống nhất quan hệ pháp luật khởi kiện để giải quyết vụ án, làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của các bên đương sự trong vụ án.

Trong vụ án này, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bị đơn sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án và trái quy định của pháp luật. Do đó, cần căn cứ Điều 295, Điều 289, điểm g khoản 1 Điều 217, điểm đ khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự, đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

[2.1.2]. Căn cứ bản án số 47/DSPT ngày 11/4/2002 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk tuyên buộc ông bà L T phải thanh toán cho doanh nghiệp X số tiền 171.950.169đ, ngày 03/10/2002, cơ quan thi hành án dân sự huyện Đắk Mil đã ban hành quyết định cưỡng chế thi hành án số 10/THA kê biên đất và tài sản trên đất của ông bà L T giao cho doanh nghiệp X. Đối tượng thụ hưởng tài sản kê biên thi hành án là doanh nghiệp X. Do vậy, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Đào Minh D và bà Trần Thị T1 là không đúng quy định. Mặt khác, căn cứ khoản 1 Điều 52 Luật đất đai 2003, thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất nêu trên (cấp cho tổ chức) là của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Nông, việc Ủy ban nhân dân huyện Đắk Mil cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không đúng thẩm quyền. Do đó, các bên có quyền yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này do cấp không đúng thẩm quyền và cấp sai đối tượng bằng một vụ án khác nếu có yêu cầu.

[2.2]. Về yêu cầu phản tố buộc nguyên đơn phải trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; 2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”.

Về quyền tài sản, Điều 115 BLDS 2015 quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác”.

Khon 16 Điều 3 Luật Đất đai 2013 quy định: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để Nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở...”.

Như vậy, theo các quy định nêu trên, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không phải là tài sản hay quyền tài sản, nó chỉ là chứng thư pháp lý thể hiện quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà, tài sản gắn liền với đất, do đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

Trong trường hợp này, đương sự có thể yêu cầu cơ quan chức năng giải quyết theo thẩm quyền buộc người chiếm giữ bất hợp pháp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phải trả lại cho chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp. Trong trường hợp giấy tờ bị mất thì chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp có quyền đề nghị cơ quan chức năng có thẩm quyền cấp lại giấy tờ bị mất theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi trong việc làm mất giấy tờ phải chịu toàn bộ chi phí, lệ phí trong việc cấp lại giấy tờ mới.

Tòa án cấp sơ thẩm viện dẫn nguyên tắc Tòa án không được từ chối giải quyết vụ án dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 4 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 để thụ lý, giải quyết là trái quy định của pháp luật. Do đó, cần căn cứ Điều 295, Điều 289, điểm g khoản 1 Điều 217, điểm đ khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự, đình chỉ yêu cầu của bị đơn về việc buộc nguyên đơn trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

[3]. Do Viện kiểm sát đã rút toàn bộ kháng nghị nên HĐXX không xem xét nội dung kháng nghị.

[4]. Trong vụ án này, cấp sơ thẩm có một số sai sót như sau:

- Về án phí: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bị đơn sang tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nhưng không buộc bị đơn đóng án phí đối với phần yêu cầu này là sai sót. Do tại cấp phúc thẩm đình chỉ yêu cầu của nguyên đơn nên không buộc bị đơn đóng án phí, tuy nhiên, cần nêu ra để cấp sơ thẩm rút kinh nghiệm.

- Về quyền kháng cáo: Người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự không có quyền kháng cáo, nhưng bản án sơ thẩm tuyên quyền này là vi phạm quy định tại Điều 271 Bộ luật tố tụng dân sự.

[5]. Về án phí:

[5.1]. Về án phí sơ thẩm:

- Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Do yêu cầu khởi kiện bị đình chỉ vì không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, cần trả lại cho nguyên đơn 300.000đ tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp.

- Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn: Do yêu cầu phản tố bị đình chỉ vì không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, cần trả lại cho bị đơn 300.000đ tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp.

[5.1]. Về án phí phúc thẩm: Do bản án sơ thẩm bị sửa, nên bị đơn không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

[6]. Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu khởi kiện bị đình chỉ giải quyết, ông Đào Xuân Y và bà Ngô Thị N phải chịu toàn bộ chi phí đo đạc là 7.160.000đ, được khấu trừ toàn bộ số tiền đã nộp tại Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2, khoản 5 Điều 308; Điều 309; điểm đ khoản 1 Điều 192; điểm g khoản 1 Điều 217; Điều 295, Điều 289, điểm đ khoản 1 Điều 192; Áp dụng khoản 1 Điều 105, Điều 115 Bộ luật dân sự 2015; Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí tòa án, tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn, sửa toàn bộ bản án sơ thẩm, đình chỉ xét xử vụ án.

2. Về án phí:

2.1. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 29, điểm b khoản 1 Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; áp dụng khoản 3 Điều 18, khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Nguyên đơn ông Đào Xuân Y và bà Ngô Thị N không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Trả lại cho ông Y và bà N 300.000đ tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp, theo biên lai số 0004950 ngày 14/11/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đắk Mil.

- Bị đơn ông Đào Minh D và bà Trần Thị T1 không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (đối với yêu cầu phản tố). Trả lại cho ông D, bà T 300.000đ tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp, theo biên lai số 0000815 ngày 23/11/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đắk Mil.

2.2. Về án phí phúc thẩm: Ông Đào Minh D và bà Trần Thị T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm. Trả lại cho ông Đào Minh D, bà Trần Thị T1 300.000đ tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp theo biên lai số 0001794 ngày 01/11/2019 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đắk Nông.

3. Về chi phí tố tụng: Ông Đào Xuân Y và bà Ngô Thị N phải chịu 7.160.000đ tiền chi phí đo đạc, được khấu trừ toàn bộ số tiền đã nộp tại Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

478
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 23/2020/DS-PT ngày 26/05/2020 về tranh chấp quyền sở hữu tài sản là quyền sử dụng đất và tranh chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Số hiệu:23/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Nông
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;