TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MINH HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 23/2018/HS-ST NGÀY 15/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 15 tháng 11 năm 2018, tại phòng xử án, Toà án nhân dân huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 17/2018/TLST-HS ngày 31/8/2018, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 378/2018/QĐXXST- HS, ngày 04/9/2018, đối với bị cáo: Phạm Thanh L (thường gọi: N T), sinh ngày: 12/7/199* tại: Xã K, huyện T, tỉnh Quảng Bình; thường trú:
Thôn K, xã K2, huyện T, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ văn hoá: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không tôn giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Xuân Th (đã chết) và bà Hoàng Thị Kiều V; con: có 02 con, lớn nhất 3 tuổi, nhỏ nhất 01 tuổi; tiền sự, tiền án: Không. Nhân thân: Trong quá trình sinh sống, Phạm Thanh L đã từng nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội như sau: Ngày 22/5/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa xử phạt 6 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; ngày 26/7/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa xử phạt 06 tháng tù, về tội Trộm cắp tài sản. Tổng hợp hình phạt chung là 12 tháng tù; ngày 23/10/2014 bị Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành án xong ngày 05/12/2015. Ngày 06/9/2018, bị Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá xử phạt 12 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”. Bị cáo tạm giam từ ngày 02/6/2018. Có mặt.
- Bị hại:
1. Anh Đinh Xuân Th; sinh năm 196*; nơi cư trú: Thôn C, xã T, huyện M, tỉnh Quảng Bình. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
2. Chị Nguyễn Thị Kim L; sinh năm 198*; nơi cư trú: Tiểu khu *, thị trấn Q, huyện M, tỉnh Quảng Bình. Có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Những người làm chứng:
1. Chị Thái Thị L; sinh năm 196*; nơi cư trú: Thôn C, xã T, huyện M, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.
2. Anh Cao Xuân Th; sinh năm 198*; nơi cư trú: Thôn Y, xã T, huyện M, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 19 giờ ngày 13/5/2018, Phạm Thanh L đi đến Bệnh viện đa khoa huyện Minh Hóa nhằm mục đích trộm cắp tài sản. Khi đến Bệnh viện, L vào một số phòng điều trị bệnh nhân xin gọi điện thoại nhờ và nằm ngủ. Đến khoảng 01 giờ sáng ngày 14/5/2018, lợi dụng lúc mọi người đã đi ngủ, L vào phòng số 2, khoa nội Bệnh viện trộm cắp 01 điện thoại OPPO A83 màu đen của anh Đinh Xuân Th để ở trên đầu giường nằm, sau khi lấy được tài sản, L tiếp tục đi sang khoa ngoại, vào phòng bệnh nhân lấy trộm 01 điện thoại VIVO V5 màu vàng của chị Nguyễn Thị Kim L. Sau khi lấy trộm hai chiếc điện thoại nói trên, Phạm Thanh L đi lên khu vực chợ Quy Đạt rồi đón xe khách vào thành phố Đồng Hới, khi đi trên xe L đã bán 2 chiếc điện thoại nói trên cho 1 thanh niên (L không biết tên tuổi địa chỉ) với giá 1.700.000 đồng. Số tiền trên L tiêu xài cá nhân hết.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 06 ngày 24 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Minh Hóa kết luận: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A83 màu sơn đen, có số IMEI 1: 867609031756091, số IMEI 2: 867609031756083, máy đã qua sử dụng có giá trị tại thời điểm bị kẻ gian lấy trộm là 4.990.000 đồng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO V5, màu sơn vàng đồng, có số IMEI 1: 863689037887334, số IMEI 2: 863689037887326, máy đã qua sử dụng có giá trị tại thời điểm bị kẻ gian lấy trộm là 4.792.000 đồng. Tổng cộng 9.782.000 đồng.
Vật chứng vụ án: Hai chiếc điện thoại trộm cắp được Phạm Thanh L đã bán cho một người thanh niên trên xe khách, L không biết họ tên, địa chỉ, vì vậy Cơ quan điều tra không thể tiến hành lấy lời khai và thu thập vật chứng được.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Đinh Xuân Th yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 4.990.000 đồng, chị Nguyễn Thị Kim L yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 5.990.000 đồng.
Cáo trạng số 15/CT-VKSMH ngày 29/8/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Minh Hoá quyết định truy tố bị cáo Phạm Thanh L về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa: Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Phạm Thanh L phạm tội “ Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phạm Thanh L từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù. Bồi thường thiệt hại và buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm;
- Bị cáo Phạm Thanh L đã hối hận về hành vi phạm tội của mình, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo làm lại từ đầu. Về yêu cầu bồi thường chiếc hai chiếc điện thoại thì bị cáo chỉ đồng ý bồi thường theo giá mà hội đồng định giá đã kết luận.
- Chị Thái Thị L là vợ của anh Đinh Xuân Th yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị chiếc điện thoại là 4.990.000 đ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Minh Hóa, Viện kiểm sát huyện Minh Hóa, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 01 giờ ngày 14/5/2018, với mục đích trộm cắp tài sản, Phạm Thanh L đã vào Bệnh viện đa khoa huyện Minh Hóa thực hiện hành vi lén lút lấy trộm 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A83 trị giá 4.990.000 đồng của anh Đinh Xuân Th; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu VIVO V5 trị giá 4.792.000 của chị Nguyễn Thị Kim L. Tại phiên tòa hôm nay cũng như trong quá trình điều tra bị cáo Phạm Thanh L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội đó phù hợp và các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ và vật chứng của vụ án. Do đó có đủ cơ sở kết luận bị cáo Phạm Thanh L phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.
Viện kiểm sát nhân dân huyện Minh Hóa truy tố bị cáo Phạm Thanh L về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.
[3]. Về tính chất, mức độ đối với hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương và xã hội. Vì vậy, cần phải áp dụng mức hình phạt phù hợp tương xứng với tính chất, mức độ đối với hành vi phạm tội của bị cáo.
[4]. Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Nhân thân bị cáo: Bị cáo có nhân thân rất xấu, quá trình sinh sống, Phạm Thanh L đã từng nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội như sau: Ngày 22/5/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa xử phạt 06 tháng tù, về tội Trộm cắp tài sản; ngày 26/7/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa xử phạt 6 tháng tù, về tội Trộm cắp tài sản. Tổng hợp hình phạt chung là 12 tháng tù; ngày 23/10/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Tuyên Hóa xử phạt 15 tháng tù, về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành án xong ngày 05/12/2015. Ngày 06/9/2018, bị Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá xử phạt 12 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”.
Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo nhận thức được sự khoan hồng của pháp luật mà chấp hành, cải tạo tốt.
[5]. Cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy phải cách ly bị cáo L ra khỏi đời sống xã hội để cải tạo bị cáo thành người có ích cho xã hội.
[6]. Về xử lý vật chứng: Hai chiếc điện thoại trộm cắp được Phạm Thanh L đã bán cho một người thanh niên trên xe khách, L không biết họ tên, địa chỉ, do Cơ quan điều tra không thể tiến hành lấy lời khai và thu thập vật chứng được nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7]. Về trách nhiệm dân sự: Anh Đinh Xuân Th yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 4.990.000 đồng, chị Nguyễn Thị Kim yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 5.990.000 đồng. Tại phiên toà, bị cáo chỉ đồng ý bồi thường theo đúng giá mà hội đồng định giá đã kết luận. Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự, các Điều 584, 585, 586, 588 và Điều 589 buộc Phạm Thanh L phải bồi thường cho anh Đinh Xuân Th số tiền 4.990.000 đ, chị Nguyễn Thị Kim L số tiền 4.792.000 đ.
[8] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định người phạm tội có thể bị phạt tiền. Xét thấy bị cáo không có tài sản vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[9]. Về án phí: Bị cáo Phạm Thanh L phải chịu án phí hình sự và dân sự theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Thanh L phạm tội: “ Trộm cắp tài sản”
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 56 Bộ luật Hình Xử phạt bị cáo Phạm Thanh L 12 tháng tù. Tổng hợp với bản án số 19 ngày 06/9/2018 của Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình xử phạt bị cáo 12 tháng tù, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 24 tháng tù.
Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày 02/6/2018.
2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự, các Điều 584, 585, 586, 588 và Điều 589 Bộ luật Dân sự buộc bị cáo Phạm Thanh L phải bồi thường cho anh Đinh Xuân Th số tiền 4.990.000 đồng, chị Nguyễn Thị Kim L số tiền 4.792.000 đồng.
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong án, khoản tiền trên hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phại thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Phạm Thanh L phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 489.000 đ án phí dân sự sơ thẩm để sung vào ngân sách nhà nước.
4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (15/11/2018). Bị hại có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.
5. Quyền yêu cầu thi hành án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 23/2018/HS-ST ngày 15/11/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 23/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Minh Hóa - Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/11/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về