Bản án 229/2018/HS-ST ngày 29/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 229/2018/HS-ST NGÀY 29/11/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:233/2018/TLST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 232/2018/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2018, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn C, sinh ngày 30 tháng 9 năm 1990 tại Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Đường N, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn T và bà Phan T; có vợ là Chu H và 01 con sinh năm 2013; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/9/2018 đến nay. Có mặt.

2. Tô T, sinh ngày 26 tháng 9 năm 1994 tại Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đường Nguyễn C, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; chỗ ở đường B, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tô L và bà Nông L; có chồng là Quách K và 01 con sinh năm 2015; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/9/2018 đến nay. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Nguyễn T. Địa chỉ: Đường L, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

2. Anh Hoàng T. Địa chỉ: Thôn H, xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt.

- Người làm chứng: NLC 1; NLC 2; NLC 3; NLC 4; NLC 5. Đều vắngmặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 20 giờ 40 phút ngày 02/9/2018, Tổ công tác Công an thành phố L kiểm tra tạm trú tại số 123 đường B, phường H, thành phố L, phát hiện 06 nam thanh niên đang chuẩn bị sử dụng trái phép chất ma túy, gồm: Nguyễn C, NLC 3, NLC 1, Hoàng T, NLC 2 và NLC 4.

Thu giữ: Trên mảnh giấy bạc chất tinh thể màu trắng và 01 viên nén màu hồng. Thu ở dưới chiếu nơi NLC 2 ngồi 01 gói giấy có chứa chất bột màu trắng. Thu ở dưới chiếu vị trí Nguyễn C ngồi 01 túi nilon chất tinh thể màu trắng và trong túi quần phía trước bên phải Nguyễn C đang mặc 01 túi nilon chất tinh thể màu trắng; 01 chai nước bằng nhựa có gắn ống nhựa để sử dụng ma túy; 01 ống bơm kim tiêm bằng nhựa màu trắng. NLC 2 khai nhận 01 gói chất bột màu trắng thu giữ dưới chiếu vị trí NLC2 ngồi là chất ma túy heroin của NLC 2. Nguyễn C khai nhận 01 viên nén màu hồng là ma túy ngựa NLC 1 đưa 100.000 đồng cho C nhờ mua hộ. Chất tinh thể màu trắng thu trong túi quần C là ma túy đá C mua cùng viên ma túy ngựa của NLC 1 với Tô T giá 100.000 đồng. Chất tinh thể màu trắng trên giấy bạc và thu dưới chiếu C ngồi là ma túy đá C mua của Mai Anh (không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể) giá 300.000 đồng.

Căn cứ lời khai của Nguyễn C Công an thành phố L đã khám xét khẩn cấp chỗ ở của Tô T, tại đường B, phường H, thành phố L và thu giữ tại giường phòng ngủ 01 túi nilon bên trong có 01 viên nén màu hồng, 01 túi nilon bên trong có 01 viên nén màu hồng và chất tinh thể màu trắng. Thu giữ tại tủ nhựa phòng khách 01 túi nilon chất tinh thể màu trắng. Thu giữ bên ngoài phòng ngủ: 01 cân tiểu ly, 01 hộp giấy màu xanh bên trong có: 01 túi nilon chất tinh thể màu trắng, 01 túi nilon bên trong có 02 viên nén màu hồng và chất tinh thể màu trắng, 01 túi nilon bên trong có 05 viên nén màu hồng, 01 túi nilon bên trong có 01 viên nén màu hồng và chất tinh thể màu trắng, 01 túi nilon bên trong có chất tinh thể màu trắng, cục chất nén nhỏ màu hồng và 01 viên nén màu hồng. Thu giữ trên đệm nền phòng khách 01 điện thoại di động Iphone màu đen và số tiền 540.000 đồng. Tô T khai nhận nguồn gốc các viên nén và chất tinh thể bị thu giữ tại nơi ở của T là chất ma túy tổng hợp. Do bản thân có sử dụng ma túy tổng hợp nênđã nảy sinh ý định mua ma túy về để sử dụng và bán cho những người có nhu cầu. Tô T gọi điện thoại cho một người phụ nữ tên Thu không rõ lai lịch để mua ma túy, cụ thể: Ngày 01/9/2018, mua 05 viên ma túy ngựa và khoảng 01 gam ma túy đá với giá 1.000.000 đồng; ngày 02/9/2018, mua 10 viên ma túy ngựa và khoảng 01 gam ma túy đá với giá 1.450.000 đồng. Sau khi có được ma túy, Tô T đã bán trái phép chất ma túy tại phòng trọ của mình nhiều lần, cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất: Khoảng 14 giờ ngày 02/9/2018, Tô T đã bán trái phép chất ma túy cho NLC 5, với giá 200.000 đồng.

- Lần thứ hai: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 02/9/2018, Tô T đã bán trái phép chất ma túy cho NLC 5, với giá 200.000 đồng.

- Lần thứ ba: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 02/9/2018, Tô T đã bán trái phép chất ma túy cho Nguyễn C, với giá 200.000 đồng.

Ngoài ra khoảng 22 giờ ngày 02/9/2018, T bán 02 viên ma túy ngựa và ma túy đá với giá 290.000 đồng cho một người tên Đạt không rõ lai lịch. Khoảng 23 giờ ngày 02/9/2018, T tiếp tục bán 01 viên ma túy ngựa và ma túy đá với giá 200.000 đồng cho một người tên Đức Anh không rõ lai lịch. Số ma túy còn lại bị Công an khám xét thu giữ.

Kết luận giám định số 315/KL-PC09 ngày 09/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận:

- 01 viên nén màu hồng và chất tinh thể màu trắng thu trên tờ giấy bạc là chất ma túy Methamphetamine có khối lượng 0,37 gam (đã trừ bì; trong đó viên nén màu hồng có khối lượng 0,096 gam).

- Chất bột màu trắng (thu của NLC 2) gửi giám định là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,097 gam (đã trừ bì).

- Chất tinh thể màu trắng có trong 01 túi nilon (thu của Nguyễn C) là chất ma túy Methamphetamine, có khối lượng 0,283 gam (đã trừ bì).

- Chất tinh thể màu trắng gửi giám định (thu của Nguyễn C) là chất ma túyMethamphetamine có khối lượng 0,208 gam (đã trừ bì).

- 11 viên nén màu hồng, chất tinh thể màu trắng và cục chất nén nhỏ màu hồng (thu của Tô T) gửi giám định đều là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng 2,443 gam (đã trừ bì).

Tại bản Cáo trạng số 228/CT-VKS ngày 13 tháng 11 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn đã truy tố truy tố bị cáo Nguyễn C về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Truy tố bị cáo Tô T về tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn C và Tô T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Tô T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy; bị cáo Nguyễn C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Tô T từ 07 đến 08 năm tù. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn C từ 18 đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì qua xác minh các bị cáo không có tài sản để đảm bảo thi hành án. Về xử lý vật chứng áp dụng Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 04 phong bì đựng mẫu vật là chất ma túy, 01 chai nước bằng nhựa, 01 ống bơm kim tiêm, 01 cân tiểu ly điện tử, 01 hộp giấy màu xanh hình chữ nhật. Tịch thu số tiền 540.000 đồng nộp ngân sách Nhà nước. Trả lại cho Hoàng T 200.000 đồng. Tịch thu hóa giá nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động Nokia 1202 màu xanh bạc và 01 điện thoại di động Iphone màu đen. Trả lại cho Nguyễn C 01 chứng minh nhân dân. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận tại phiên tòa. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Trong khoảng thời gian từ 14 giờ đến 20 giờ 30 phút ngày 02/9/2018, tại đường B, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, Tô T đã có hành vi nhiều lần (03 lần) bán trái phép chất ma túy cho NLC 5 và Nguyễn C. Tổng số khối lượng Tô T phải chịu trách nhiệm hình sự là 2,747 gam chất ma túy Methamphetamine. Khoảng 20 giờ 40 phút ngày 02/9/2018, tại số 123 đường B, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn, bắt quả tang Nguyễn C có hành vi tàng trữ trái phép 0,765 gam chất ma túy Methamphetamine. Khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Do đó, Viện kiểm sát truy tố Nguyễn C về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Truy tố bị cáo Tô T về tội Mua bán trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

 [3] Hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương, gây bất bình trong xã hội. Các bị cáo nhận thức rõ ma túy là chất gây nghiện, có tác hại nghiêm trọng đến sức khỏe con người, là nguyên nhân làm phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, nhưng các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Do đó, hành vi của các bị cáo phải được xử lý nghiêm trước pháp luật.

 [4] Về nhân thân: Các bị cáo là người sử dụng chất ma túy, không có nghề nghiệp ổn định. Các bị cáo có nhân thân tốt, lần phạm tội này là lần đầu.

 [5] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

 [6] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên toà cũng như trong quá trình điều tra, các bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, vì vậy các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

 [7] Xét lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ và về mức hình phạt áp dụng đối với từng bị cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [8] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh thể hiện các bị cáo không có tài sản, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

 [9] Về xử lý vật chứng căn cứ khoản 2; điểm b khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Đối với 04 phong bì niêm phong đựng chất ma túy là vật Nhà nước cấm lưu hành và 01 chai nước bằng nhựa, 01 ống bơm kim tiêm, 01 cân tiểu ly, 01 hộp giấy màu xanh không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 540.000 đồng là tiền do phạm tội mà có, cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước. Đối với 01 điện thoại Nokia 1202 và 01 điện thoại Iphone là công cụ, phương tiện phạm tội cần tịch thu hóa giá nộp ngân sách Nhà nước. Đối với 01 chứng minh nhân dân, xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án nên trả lại cho Nguyễn C. Đối với 200.000 đồng thu giữ của Hoàng T không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho chủ sở hữu.

 [10] Đối với người tên Mai Anh đã bán ma túy cho bị cáo Nguyễn C, người tên Thu đã bán ma túy cho bị cáo Tô T, do các bị cáo không biết lai lịch nên không có căn cứ xác minh làm rõ được để xử lý.

 [11] Đối với hành vi của NLC 1 nhờ Nguyễn C đi mua hộ 100.000 đồng ma túy, Kết luận giám định viên ma túy ngựa chỉ có khối lượng 0,096 gam; NLC 2 có hành vi tàng trữ trái phép 0,097 gam chất ma túy. Những hành vi trên chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, Công an thành phố L đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là có căn cứ.

 [12] Đối với chiếc xe mô tô Suzuki biển kiểm soát 12K1-5088 Cơ quan điều tra đã trả lại cho ông Nguyễn T; xe mô tô Honda biển kiểm soát 12F1- 8025, 01 điện thoại Oppo A83 màu đen và 01 chứng minh thư Cơ quan điều tra đã trả lại cho NLC 1. Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

 [13] Các bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụQuốc hội.

 [14] Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, đối với bị cáo Tô T;

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, đối với bị cáo Nguyễn C.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Tô T phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, bị cáo Nguyễn C phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Tô T 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 03/9/2018.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn C 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 03/9/2018.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 04 phong bì niêm phong đựng mẫu vật là chất ma túy sau giám định; 01 chai nước bằng nhựa có gắn ống nhựa để sử dụng ma túy; 01 ống bơm kim tiêm bằng nhựa màu trắng; 01 cân tiểu ly điện tử vỏ bạc cũ đã qua sử dụng; 01 hộp giấy màu xanh hình chữ nhật kích thước 3x7x10 cm.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 540.000 đồng (năm trăm bốn mươi nghìn đồng).

- Tịch thu hóa giá nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động Nokia 1202 màu xanh bạc, số IMEI: 355686836592859; 01 điện thoại di động Iphone màu đen, số IMEI: 013661008195491.

- Trả lại cho Nguyễn C: 01 Chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn C.

- Trả lại cho Hoàng T 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

 (Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 07 tháng 11 năm 2018. Số tiền 740.000 đồng được gửi tại tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn theo Ủy nhiệm chi ngày 14 tháng 11 năm 2018 của Công an thành phố Lạng Sơn)

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn C và Tô T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để nộp ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

255
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 229/2018/HS-ST ngày 29/11/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:229/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;