Bản án 227/2021/HS-ST ngày 14/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

A ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 227/2021/HS-ST NGÀY 14/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 6 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 232/2021/ HSST ngày 29 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 245/2021/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2021 đối với:

Bị cáo Nguyễn Thị Minh T ; Sinh năm: 1981 Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: SN ... TND, phường QT, quận HĐ, thành phố HN Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Xuân N (đã chết) và bà Đào Thị M (M2), sinh năm 1948; Gia đình có 03 anh em, bị can là con thứ 2; Chồng: Phạm Ngọc B , sinh năm 1973; Có 03 con, con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2016.

Tiền án: Ngày 17/6/1999 bị Tòa án nhân dân tinh Thái Nguyên xử phạt 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 5/8/2012, chưa nộp án phí HSST; Tiền sự: Không Nhân thân: Năm 2016 bị Công an phường Hà Cầu, quận Hà Đông, TP. Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Bị cáo tại ngoại, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (Có mặt)

Người bị hại: Quách Thị Tám, sinh năm 1975 (Vắng mặt) Địa chỉ: 268 Hải Thượng Lãn Ông, phường Quảng Thắng, TP. Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 08 giờ ngày 30/11/2020, Nguyễn Thị Minh T đến mua hàng tại cửa hàng tạp hóa của chị Quách Thị Tám (ở 268 Hải Thượng Lãn Ông, phường Quảng Thắng, TP. Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa) T nhìn thấy 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh đen của chị Tám để trên sạp hàng ở lối đi nên nảy sinh ý định chiếm đoạt. Lợi dụng lúc chị Tám đi vào trong lấy hàng để bán cho T , quan sát thấy không có ai trông coi, T lấy chiếc điện thoại cho vào túi áo, sau đó thanh toán tiền mua hàng và đi về phòng bệnh 409 - Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa (nơi chồng T đang điều trị) cất vào túi xách của Thủy.

Sau khi phát hiện bị mất điện thoại, chị Tám đã kiểm tra Camera và xác định T là người lấy trộm điện thoại của chị.

Đến 11 giờ cùng ngày, T ra cổng bệnh viện mua hàng thì bị chị Tám giữ lại và trình báo công an phường Quảng Thắng. Tại Công an phường Quảng Thắng, T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như trên và tự giác giao nộp chiếc điện thoại đã trộm cắp của chị Tám Tại Bản kết luận định giá tài sản số 320/KL-HĐ ĐGTS ngày 08/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND TP. Thanh Hóa kết luận: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, màu xanh đen trị giá 3.500.000đ (Ba triệu năm trăm ngàn đồng) Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thị Minh T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của người bị hại và các tài liệu chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra vụ án Vật chứng vụ án: Ngày 16/12/2020, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, màu xanh đen cho chủ sở hữu là chị Quách Thị Tám. Chị Tám đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì. Ngày 03/6/2021 chị Tám có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại bản cáo trạng số 121/CTr-VKS ngày 26 tháng 4 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố Nguyễn Thị Minh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự; Xác định bị cáo đã được xóa án tích đối với bản án ngày 17/6/1999 của TAND tỉnh Thái Nguyên Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa giữ nguyên quyết định truy tố; Xác định bị cáo chưa được xóa án tích đối với bản án ngày 17/6/1999 của TAND tỉnh Thái Nguyên; Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 - của Bộ luật hình sự tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt Nguyễn Thị Minh T từ 06 tháng đến 09 tháng tù; Phần dân sự không có yêu cầu nên không xét; Án phí: bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Thị Minh T thừa nhận hành vi phạm tội và xin được hưởng sự khoan hồng của pháp luật với mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Khoảng 08 giờ ngày 30/11/2020, tại số nhà 268 Hải Thượng Lãn Ông, phường Quảng Thắng, TP. Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, Nguyễn Thị Minh T đã có hành vi lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý trông coi tài sản, T đã lén lút chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh đen của chị Quách Thị Tám nhằm mục đích sử dụng. Tài sản Thủy trộm cắp trị giá 3.500.000đ (ba triệu năm trăm ngàn đồng).

Căn cứ hành vi của bị cáo và kết luận định giá tài sản, HĐXX có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Thị Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 điều 173 - Bộ luật hình sự là đúng người đúng tội đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất vụ án: Vụ án có tính chất ít nghiêm trọng, bị cáo đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu trong việc trông coi quản lý tài sản, lén lút chiếm đoạt tài sản là 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh đen của chị Quách Thị Tám. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật, gây mất trật tự trị an trong khu vực, thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo.

[3] Xét tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, do đó phải chịu tình tiết tăng nặng “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 - BLHS. Bị cáo có nhân thân xấu. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo; Tài sản bị cáo trộm cắp có giá trị không lớn và đã trả lại đầy đủ cho người bị hại; Người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; Mẹ bị cáo là TNXP đang hưởng chế độ như thương binh. Do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51- Bộ luật hình sự. Vì vậy, HĐXX xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Song cần cách ly bị cáo khỏi đời sống cộng đồng xã hội một thời gian mới đủ để cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và để phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không có yêu cầu về dân sự nên HĐXX không xét.

[5] Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Quách Thị Tám là chủ sở hữu theo quy định tại Điều 106 Bộ luật TTHS

[6] Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố là hợp pháp.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; khoản 1 điều 21; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016;

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 - của Bộ luật hình sự

- Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Xử phạt; Nguyễn Thị Minh T 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án

- Về bồi thường dân sự: Người bị hại không có yêu cầu, HĐXX không xét.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 99 BLTTHS; khoản 1 điều 21; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Thị Minh T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Chị Quách Thị Tám có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 227/2021/HS-ST ngày 14/06/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:227/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;