Bản án 22/2023/HS-ST về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH C

BẢN ÁN 22/2023/HS-ST NGÀY 27/09/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 27 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh C xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 20/2023/TLST-HS ngày 12/9/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2023/QĐXXST-HS ngày 15/9/2023 đối với bị cáo:

Hầu Văn C (tên gọi khác: Anh C), sinh ngày 07 tháng 7 năm 1981 tại xã Đ, huyện H, tỉnh C; Nơi cư trú: Xóm S, xã Đ, huyện H, tỉnh C; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hầu Văn S1, sinh năm 1963 và bà Lầu Thị V (đã chết); Vợ: Sùng Thị M, sinh năm 1983; Bị cáo có 05 con (con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2013).

Tiền án: 01, bị cáo bị Tòa án xử phạt 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng về tội “Cố ý gây thương tích” tại Bản án số 04/2019/HS-ST ngày 19/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Thông Nông (nay là huyện H), tỉnh C.

Tiền sự: 01, ngày 30/11/2021 bị cáo bị xử phạt vi phạm H chính về hành vi xâm hại sức khỏe người khác tại Quyết định số 09/QĐ-VPHC ngày 30/11/2021 của Công an xã Đ, huyện H, tỉnh C.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 30/6/2023 đến nay tại nhà tạm giữ Công an huyện H, tỉnh C. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lục Thị H - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh C. Có mặt.

- Bị hại: Hầu Văn H, sinh năm 1988; nơi cư trú: xóm S, xã Đ, huyện H, tỉnh C.

Vắng mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Bà Nông Thị Thu Tr - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh C. Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Đ1 thời là người làm chứng: Sùng Thị M, sinh năm 1983; nơi cư trú: xóm S, xã Đ, huyện H, tỉnh C. Có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Người làm chứng:

1. Hầu Văn S, sinh ngày 26/11/2005. Vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của người làm chứng Hầu Văn S: Bà Sùng Thị M, sinh năm 1983. Có mặt

2. Hầu Văn Đ, sinh năm 2004. Vắng mặt.

3. Hoàng Văn Đ1, sinh năm 1986. Vắng mặt. Cùng nơi cư trú: xóm S, xã Đ, huyện H, tỉnh C;

+ Người phiên dịch tiếng Mông: Ông Hoàng Chí C1, sinh năm 1960; địa chỉ: xóm L, xã T, huyện H, tỉnh C. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 02/5/2023, Hầu Văn C, Hầu Văn S, Sùng Thị M, Hầu Văn H, Hầu Văn Đ, Hoàng Văn N và Hoàng Văn Đ1 cùng trú tại xóm S Hà, xã Đa Thông, huyện H, tỉnh C cùng nhau ăn cơm, uống rượu tại nhà riêng của C. Đến khoảng 00 giờ ngày 03/5/2023, S, Đ, Đ1, M đi ngủ còn N đi về nhà, lúc này chỉ còn C và H tiếp tục ngồi uống rượu với nhau. Trong lúc nói chuyện hai bên xảy ra mâu thuẫn, C đứng dậy đi vào bếp lấy một con dao nhọn bằng kim loại, H cũng đứng dậy đi về hướng nhà bếp để đi về nhà. Khi H bước đến đối diện với C, C cầm dao bằng tay phải giơ lên chém về phía H, H giơ tay trái lên đỡ nên bị dao chém vào cẳng tay. Nghe tiếng cãi nhau S, Đ1, Đ, M dậy can ngăn C cất dao đi, còn H được M, S và Đ đưa xuống bếp để cầm máu. Lúc này, C chạy ra ngoài cửa bếp nhặt một khúc cây đi đến chỗ H đang ngồi đánh một phát vào lưng H, H dùng tay đẩy C khiến C bị ngã xuống đất, Đ1 và S can ngăn nên C lên nhà chính ngủ còn H ngủ tại giường trong nhà bếp, đến sáng hôm sau mới đi điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh C.

Ngày 03/5/2023 Hầu Văn H có đơn trình báo đến Công an xã Đa Thông, huyện H, ngày 08/5/2023 Công an xã Đa Thông đã lập biên bản tạm giữ các vật chứng vụ án, Đ1 thời chuyển tin báo đến Công an huyện H để giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 30/5/2023, Công an huyện H ra Quyết định trưng cầu giám định đối với thương tích của Hầu Văn H.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 092/KLTTCT-TTPY ngày 15/6/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh C kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Hầu Văn H tại thời điểm giám định là 14% (Mười bốn phần trăm). Bị cáo, bị hại nhất trí với kết luận giám định.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Hầu Văn C thừa nhận được thực hiện hành vi gây thương tích cho bị hại Hầu Văn H như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Trong quá trình điều tra và tại đơn xin xét xử vắng mặt, bị hại Hầu Văn H không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại về sức khỏe. Về trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Sùng Thị M trình bày con dao bị cáo đã dùng để gây thương tích cho bị hại là tài sản của bà M và bị cáo, do bị cáo dùng con dao để phạm tội và không còn giá trị nên bà không yêu cầu được trả lại.

Bản cáo trạng số: 20/CT-VKSHQ ngày 08/9/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh C truy tố bị cáo Hầu Văn C về tội "Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng. Về trách nhiệm hình sự đề nghị HĐXX áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự (BLHS) xử phạt bị cáo từ 30 (Ba mươi) đến 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Về trách nhiệm dân sự, đề nghị HĐXX ghi nhận sự tự nguyện của bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường dân sự. Về xử lý vật chứng, đề nghị áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) tịch thu tiêu hủy 01 (một) con dao nhọn bằng kim loại, màu đen tổng chiều dài là 33,5cm (chuôi dao dài 10,5 cm, lưỡi dao dài 23 cm) dao cũ đã qua sử dụng và 01 (một) đoạn cây củi khô hình trụ, bị nứt, gãy có tổng chiều dài 77cm không còn giá trị sử dụng. Về án phí: Đề nghị HĐXX miễn án phí cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, người bào chữa trình bày luận cứ bào chữa cho bị cáo, nhất trí với Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng. Tuy nhiên, do bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, gia đình thuộc hộ nghèo, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo luôn có thái độ thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, sau khi sự việc xảy ra bị cáo cũng đã đến nhà xin lỗi bị hại và mong muốn bồi thường cho bị hại số tiền 2.000.000 Đ1 nhưng do bị cáo bị tạm giam nên hiện nay vẫn chưa thực hiện được việc bồi thường. Do vậy, đề nghị HĐXX áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp nhất của Viện kiểm sát đề nghị, ghi nhận ý kiến không yêu cầu bồi thường thiệt hại về sức khỏe của bị hại và đề nghị miễn án phí cho bị cáo.

Tại phiên tòa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại trình bày quan điểm nhất trí với Cáo trạng của Viện kiểm sát về tội danh và điều luật áp dụng. Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, đã xâm phạm đến sức khỏe của cá nhân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo có nhân thân xấu, đã có tiền án và tiền sự đều liên quan đến hành vi xâm hại đến sức khỏe người khác. Nhưng trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, bị hại cũng xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và không có yêu cầu bồi thường thiệt hại. Do đó, nhất trí với các đề nghị của Viện kiểm sát về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt, trách nhiệm dân sự và án phí.

Tại phần tranh luận bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đều nhất trí với nội dung bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát, không ai có ý kiến đối đáp, tranh luận.

Trong lời sau cùng, bị cáo biết hành vi của mình là sai trái pháp luật, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội Đ1 xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Điều tra viên Cơ quan điều tra Công an huyện H, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện H, người bào chữa cho bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Đối với bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt và những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa, trước đó đã có lời khai tại Cơ quan điều tra về những vấn đề liên quan đến nội dung vụ án. Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng không ai đề nghị hoãn phiên tòa. Do vậy HĐXX quyết định xét xử vắng mặt bị hại và những người làm chứng theo quy định tại các Điều 292, 293 BLTTHS.

[2] Về tội danh và tình tiết định khung hình phạt: Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với vật chứng vụ án đã thu giữ; Phù hợp với lời khai của bị hại, những người làm chứng; Bản ảnh; Biên bản xác định hiện trường và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thu thập hợp pháp, qua đó có đủ cơ sở xác định: Khoảng 00 giờ ngày 03/5/2023, do mâu thuẫn nên Hầu Văn C đã có hành vi dùng dao gây thương tích cho Hầu Văn H, tỷ lệ thương tích theo kết luận giám định là 14% (Mười bốn phần trăm). Hành vi của bị cáo đã đủ các yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của BLHS. Do vậy, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật nên Hội Đ1 xét xử chấp nhận.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng đã xâm phạm đến sức khỏe của công dân được pháp luật bảo vệ, xâm phạm đến trật tự trị an, gây mất trật tự xã hội ở địa phương. Bị cáo thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, biết rõ việc gây thương tích cho người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện nên cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Do vậy, cần cách ly bị cáo một thời gian để bị cáo sửa đổi, giáo dục bị cáo sau này trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền án và 01 tiền sự.

Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị hại Hầu Văn H đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 51 BLHS.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị hại Hầu Văn H không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại về sức khỏe nên HĐXX không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) con dao nhọn bằng kim loại, màu đen tổng chiều dài là 33,5cm (chuôi dao dài 10,5 cm, lưỡi dao dài 23 cm) dao cũ đã qua sử dụng và 01 (một) đoạn cây củi khô hình trụ, bị nứt, gãy có tổng chiều dài 77cm. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định bị cáo sử dụng để làm công cụ phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo Hầu Văn C hoàn cảnh gia đình khó khăn, thuộc hộ nghèo theo Quyết định số 1094 ngày 30/12/2022 của Ủy ban nhân dân xã Đa Thông, huyện H, tỉnh C. Bị cáo có đơn xin miễn án phí nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

[9] Xét các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, người bào chữa cho bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại là có cơ sở, phù hợp với nhận định của HĐXX nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Hầu Văn C phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt bị cáo Hầu Văn C 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp H hình phạt tù tính từ ngày 30/6/2023.

2. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện của bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại về sức khỏe, HĐXX không xem xét.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 (một) con dao nhọn bằng kim loại, màu đen, tổng chiều dài là 33,5cm (chuôi dao dài 10,5 cm, lưỡi dao dài 23 cm) dao cũ đã qua sử dụng và 01 (một) đoạn cây củi khô hình trụ, bị nứt, gãy có tổng chiều dài 77cm.

(Xác nhận toàn bộ vật chứng đã được chuyển đến Chi cục Thi H án dân sự huyện H theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 27 ngày 11/9/2023).

4. Về án phí: Căn cứ các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Hầu Văn C được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

88
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 22/2023/HS-ST về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:22/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Quảng - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;