Bản án 22/2019/HNGĐ-ST ngày 22/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 22/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 22 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 52/2019/TLST-HNGĐ ngày 28 tháng 3 năm 2019 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2019/QĐXX-ST ngày 06/5/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị H, sinh năm 1985;

Nơi ĐKHKTT: thôn 8, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình

Địa chỉ: Tổ tự tạo 3, đường H, phường 11, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng ( Chị H có đơn xin vắng mặt)

- Bị đơn: Anh Đinh Ngọc C, sinh năm 1984, có mặt;

Địa chỉ: thôn 8, xã V, huyện K, tỉnh Thái Bình.

 NỘI DUNG VỤ ÁN

 * Tại đơn khởi kiện đề ngày 26/3/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Hoàng Thị H trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Hoàng Thị H và anh Đinh Ngọc C tự nguyện đăng ký kết hôn vào ngày 26/3/2008 tại UBND xã Vũ Thắng, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại thôn 8 xã V và sinh được 02 con chung. Quá trình chung sống đến năm 2015 phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng không có tiếng nói chung, kinh tế gia đình khó khăn, cả hai con chung đều bị bệnh chậm phát triển, vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Năm 2015 vợ chồng cùng hai con vào nhà mẹ đẻ chị H ở tỉnh Đắc Nông để làm ăn thì vợ chồng tiếp tục xảy ra mâu thuẫn. Anh C về nhà ở Thái Bình và để 03 mẹ con chị ở Đắc Nông. Sau khi anh C về nhà được khoảng 03 tháng thì chị cũng phải gửi con trai lớn về xã V cho anh C nuôi vì một mình chị không thể nuôi được cả hai con bị bệnh, vợ chồng ly thân từ năm 2015 đến nay. Nay chị H xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh C, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh C.

- Về quan hệ con chung: Chị và anh C có 02 con chung là Đinh Anh V, sinh ngày 01/11/2008 đang ở cùng anh C và Đinh Quang N, sinh ngày 16/7/2014 đang ở cùng chị H. Ly hôn chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con N và anh C trực tiếp nuôi dưỡng con V, không ai phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn - anh Đinh Ngọc C trình bày: Về thời gian và điều kiện kết hôn đúng như chị H trình bày. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng nhau ở thôn 8, xã V, huyện K và sinh được 02 con chung. Năm 2014 cả gia đình gồm vợ chồng và 02 con vào nhà bà ngoại các cháu ở tỉnh Đắc Nông chơi, khoảng 01 tháng thì anh C về xã V để hương khói cho bố anh, chị H cùng các con ở lại về sau. Sau khoảng 03 tháng thì chị H gửi con trai lớn về cho anh nuôi dưỡng và từ đó đến nay chị H chưa về nhà lần nào thăm anh và con. Anh cũng đã vào tỉnh Đắc Nông tìm mẹ con chị H nhưng do không biết địa chỉ nên không tìm được. Vợ chồng ly thân từ đó đến nay không liên lạc gì với nhau. Chị H không gọi điện thỏi thăm con, không cho anh số điện thoại để liên lạc. Nay chị H xin ly hôn thì anh cũng đồng ý. Vợ chồng anh có 02 con chung là Đinh Anh V, sinh ngày 01/11/2008 đang ở cùng anh C và Đinh Quang N, sinh ngày 16/7/2014 đang ở cùng chị H. Ly hôn anh có nguyện vọng nuôi cháu N, chị H nuôi cháu V. Nếu chị H nuôi được cả hai con thì anh cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng. Nếu chị H không nuôi được thì anh nuôi cả hai con và yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con 1.000.000đồng/tháng.Về tài sản chung, nợ chung: anh C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Biên bản xác minh tại UBND xã Vũ Thắng cung cấp như sau: Chị H và anh C tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND xã Vũ Thắng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại thôn 8, xã V và sinh được 02 con chung. Vợ chồng anh C chị H là hộ cận nghèo của xã, vợ chồng mâu thuẫn là do cả hai con chung đều chậm phát triển về ngôn ngữ và tư duy, do kinh tế gia đình khó khăn. Chị H đã mang theo con thứ hai và miền Nam sinh sống, vợ chồng ly thân khoảng 03 năm nay, anh C nuôi con lớn. Nay chị H xin ly hôn thì đề nghị Tòa án giải quyết vấn đề hôn nhân và con chung theo quy định của pháp luật. Vợ chồng chị H anh C không vay nợ của các tổ chức, đoàn thể trong xã, còn có vay nợ cá nhân hay không thì địa phương không nắm được.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình có quan điểm cho rằng Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng. Về ý kiến giải quyết vụ án, đại diện Viện kiểm sát đề nghị:

Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng điều 56, 58, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, chấp nhận cho chị H được ly hôn anh C.

Về quan hệ con chung: Giao con chung Đinh Anh V, sinh ngày 01/11/2008 cho anh Đinh Ngọc C trực tiếp nuôi dưỡng và giao con chung Đinh Quang N sinh ngày 16/7/2014 cho chị Hoàng Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con. Chị H và anh C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án: chị H thuộc hộ cận nghèo nên không phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm, trả lại chị H 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]- Về thủ tục tố tụng: Chị H xin ly hôn anh C, cả hai anh chị đều đăng ký hộ khẩu thường trú tại UBND xã Vũ T huyện K nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành xác minh thu thập chứng cứ để làm rõ tình trạng hôn nhân, điều kiện nuôi dưỡng con chung và tài sản chung vợ chồng, vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng với quy định tại Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, chị H kết hôn với anh C trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Vũ Thắng, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình là hôn nhân hợp pháp. Trong thời gian chung sống đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân theo chị H do vợ chồng không có tiếng nói chung, kinh tế gia đình khó khăn, cả hai con chung đều bị bệnh chậm phát triển. Còn mâu thuẫn vợ chồng theo anh C là do chị H cùng con thứ hai vào tỉnh Đắc Nông chơi rồi không về chung sống cùng anh nữa. Chị H và anh C đều khai vợ chồng không chung sống cùng nhau từ năm 2015 đến nay, vợ chồng không quan tâm và liên hệ gì với nhau, bỏ mặc ai muốn sống ra sao thì sống. Chị H xin ly hôn và anh C đồng ý ly hôn. Xét thấy, tình trạng hôn nhân của chị H và anh C là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận xử cho chị H được ly hôn anh C là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[4]Về quan hệ con chung: Chị H và anh C có 02 con chung là Đinh Anh V, sinh ngày 01/11/2008 đang ở cùng anh C và Đinh Quang N, sinh ngày 16/7/2014 đang ở cùng chị H. Ly hôn chị H và anh C đều có nguyện vọng mỗi người nuôi dưỡng một con. Hiện nay cháu V đang do anh C nuôi dưỡng và cháu N đang do chị H nuôi dưỡng. Vì vậy, để đảm bảo môi trường sống ổn định cho con chung cần giao cháu Đinh Anh V, sinh ngày 01/11/2008 cho anh Đinh Ngọc C tiếp tục nuôi dưỡng và giao cháu Đinh Quang N, sinh ngày 16/7/2014 cho chị Hoàng Thị H tiếp tục nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung . Chị H, anh C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[5] Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Chị H và anh C đều không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy Tòa án không đặt ra giải quyết về quan hệ tài sản.

[6] Về án phí: Chị H thuộc hộ cận nghèo của UBND xã Vũ Thắng nên không phải chịu tiền án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 5 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 58, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ vào khoản 5 Điều 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Hoàng Thị H được ly hôn anh Đinh Ngọc C.

2. Về quan hệ con chung: Giao con chung Đinh Anh V, sinh ngày 01/11/2008 cho anh Đinh Ngọc C trực tiếp nuôi dưỡng và giao cháu Đinh Quang N, sinh ngày 16/7/2014 cho chị Hoàng Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Chị H, anh C có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Trả lại chị Hoàng Thị H số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001288 ngày 28/3/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.

5. Về quyển kháng cáo: Anh Đinh Ngọc C có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 22/5/2019. Chị Hoàng Thị H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 22/2019/HNGĐ-ST ngày 22/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:22/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;