Bản án 218/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 218/2020/HS-ST NGÀY 30/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 30 tháng 11 năm 2020 tại Hội trường xét xử - Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 205/2020/TLST-HS, ngày 30 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 206/QĐXXST- HS ngày 16/11/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Dương Đức M - Tên gọi khác: không - Giới tính: Nam;

Sinh ngày 07 tháng 6 năm 1981 tại thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; Nơi cư trú: Tổ 2, khu 6, phường M, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không;

Trình độ học vấn: Lớp 10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do;

Họ và tên bố: Dương Đức H; Họ và tên mẹ: Vũ Thị M Vợ: Nguyễn Thị H;

Có 02 con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: không;

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 23/7/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh.Có mặt tại phiên toà.

* Người chứng kiến:

- Ông Nguyễn Đức Tr – sinh năm 1965; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 2, khu 2, phường Mông Dương, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

- Ông Nguyễn Tiến L – sinh năm 1962; Nơi đăng ký họ khẩu thường trú: Tổ 8, khu 7, phường Mông Dương, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

Đều vắng mặt tại phiên toà.

* Người làm chứng:

- Chị Lê Thị Hồng V – sinh năm 1991; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 5, khu 8A, phường Q, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

- Anh Giang Công L – sinh năm 1975; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 4, khu 1A, phường Q, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

-Anh Nguyễn Văn Th – sinh năm 1974; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 4, khu 7A, phường C, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

- Chị Nguyễn Thị H – sinh năm 1988; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 2, khu 6, phường M, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

- Chị Bùi Thị Ch – sinh năm 1985; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ 2, khu 6, phường M, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

Đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 10 phút ngày 23/7/2020, tại khu vực ngõ dân sinh thuộc tổ 2, khu 2, phường Mông Dương, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố Cẩm Phả, phối hợp với Công an phường Mông Dương, thành phố Cẩm Phả, bắt quả tang Dương Đức M có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ của M gồm: Thu trong tay phải của M 02 túi nilon, kích thước (2,5x1,5)cm, bên trong có chất tinh thể màu trắng; Thu trong túi áo ngực bên phải của M 14.910.000 đồng; Thu trong tay phải của M 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Itel, màu đen, gắn 02 sim; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α, biển kiểm soát 14U1-27527. (bút lục số 31-32) Tại bản kết luận giám định số 1019/GĐMT ngày 28/7/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: 02 túi nilon ma túy thu giữ của Dương Đức M là ma túy, loại Methamphetamine, tổng khối lượng là 0,204gam. (bút lục số 28) Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo Dương Đức M khai nhận: Số ma túy thu giữ của bị cáo có nguồn gốc là do bị cáo mua của người không quen biết vào lúc 10 giờ ngày 23/7/2020 tại khu vực chợ Cửa Ông, thành phố Cẩm Phả với giá 300.000 đồng, bị cáo mua ma tuý mục đích để sử dụng cho bản thân; Số tiền 14.910.000 đồng thu giữ của bị cáo là của vợ bị cáo nhờ đưa đi trả nợ cho chị Bùi Thị Chín; chiếc xe máy là tài sản chung của vợ chồng bị cáo; bị cáo không sử dụng chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Itel đã bị thu giữ vào việc mua ma tuý.

Người chứng kiến là các ông Nguyễn Đức Tr và ông Nguyễn Tiến L, trong quá trình điều tra có lời khai thể hiện nội dung: Hồi 11 giờ 10 phút ngày 23/7/2020, tại khu vực ngõ dân sinh thuộc khu 2, phường M, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh các ông chứng kiến công an bắt quả tang Dương Đức M; chứng kiến công an thu giữ trong tay phải của M 02 túi nilon màu xanh, trắng bên trong có chất tinh thể màu trắng, M khai là ma tuý đá; ngoài ra còn thu giữ của M số tiền 14.910.000 đồng, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Itel, 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α, biển kiểm soát 14U1-27527 (bút lục số 38-39; 41-42).

Tài liệu có trong hồ sơ có các tài liệu: Biên bản bắt người phạm tội quả tang (BL 31, 32), Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ (BL 35), bản ảnh vật chứng (BL 33), các tài liệu này đều có nội dung phù hợp lời khai của bị cáo, phù hợp lời khai của người chứng kiến là các ông Nguyễn Đức Tr và Nguyễn Tiến L. Quá trình điều tra cơ quan điều tra tiến hành xác minh chiếc xe Honda Wave α, biển kiểm soát 14U1-27527 người đứng tên trên giấy đăng ký xe là Lê Thị Hồng V (BL 82), Lời khai của chị Lê Thị Hồng V, của anh Giang Công L, của ông Nguyễn Đức Th (BL82;

99;103; 85), thể hiện nội dung chị Vân đã bán xe cho anh Giang Công Lăng, anh Lăng đã bán cho ông Nguyễn Đức Th và ông Thiện bán cho bị cáo M. Lời khai của chị Nguyễn Thị H (BL – 90), chị Bùi Thị Chín (BL 94) đều có nội dung phù hợp lời khai của bị cáo về số tiền 14.910.000đồng thu giữ của bị cáo M là tiền của chị H đưa cho bị cáo mang đi trả nợ tiền hàng cho chị Ch.

Tại bản cáo trạng số 201/CT-VKSCP ngày 29/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố bị cáo Dương Đức M về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa kiểm sát viên trình bày luận tội bị cáo với đề nghị kết tội bị cáo như nội dung bản cáo trạng đã truy tố; đề nghị áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt, ngày 23/7/2020; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo và có quan điểm xử lý vật chứng theo quy định.

Tại phần tranh luận, bị cáo Dương Đức M không tranh luận;

Bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Cẩm Phả, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Dương Đức M đã khai nhận ngày 23/7/2020 bị cáo đã mua ma tuý để sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai của người chứng kiến, phù hợp các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong vật chứng; Kết luận giám định ma túy.

Từ các căn cứ này Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Hồi 11 giờ 10 phút ngày 23/7/2020, tại tổ 2, khu 2, phường Mông Dương, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, Dương Đức M có hành vi tàng trữ trái phép 0,204gam (không phảy hai trăm lẻ bốn gam) ma túy, loại Methamphetamine, để sử dụng thì bị Công an thành phố Cẩm Phả phát hiện, bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, tội danh có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù. Luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nội dung bản cáo trạng, nội dung đề nghị xét xử đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước. Pháp luật hình sự xử lý nghiêm khắc đối với các tội phạm về ma túy, để nhằm mục đích ngăn chặn, đẩy lùi tệ nạn ma túy trong xã hội. Bị cáo là người trưởng thành có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hiểu được tác hại của ma tuý đối với xã hội và sự nghiêm cấm của pháp luật đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý nhưng do lối sống không có trách nhiệm với bản thân và xã hội bị cáo vẫn cố tình mua ma túy để sử dụng. Hành vi phạm tội của bị cáo đã tiếp tay cho người bán ma túy, góp phần làm gia tăng tệ nạn ma túy tại địa phương, gây mất trật tự trị an xã hội. Xét tính chất tội phạm bị cáo thực hiện, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định để giáo dục bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo tỏ thái độ ăn năn hối cải, bố bị cáo được tặng huân, huy chương do đã có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (BL 121,122), là người có công với cách mạng, nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

[5] Về vật chứng: Số mẫu vật hoàn lại sau giám định là vật nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu huỷ; số tài sản và đồ vật khác thu giữ của bị cáo, bao gồm: chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Itel, số tiền 14.910.000đồng, xe mô tô Honda Wave α; xác định chiếc điện thoại và số tiền không liên quan đến hành vi phạm tội, chiếc xe mô tô xác định là tài sản chung của vợ chồng bị cáo nên đều trả lại cho bị cáo.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[9] Đối với đối tượng bán ma túy cho Dương Đức M, do không biết lai lịch, địa chỉ nên không đủ cơ sở để điều tra làm rõ.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ : điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự ;

Tuyên bố: Bị cáo Dương Đức M phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt: Bị cáo Dương Đức M 15 (mươi lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt ngày 23/7/2020.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu huỷ số mẫu vật hoàn lại sau giám định trong phong bì niêm phong số 1019/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh.

-Trả cho bị cáo Dương Đức M số tiền 14.910.000 đồng (Mười bốn triệu chín trăm mười nghìn đồng); 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Itel (mặt trước màu đen, mặt sau màu vàng, kèm 02 sim, 01 pin, điện thoại đã qua sử dụng, số IMEI:353510101509868, model: it6120); 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave α, biển kiểm soát 14U1-27527 (màu trắng, đã cũ, số máy: HC12E7218056, số khung: RLHHC1253FY217951).

(Hiện trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 28/BB-THA ngày 10/11/2020 của cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả.) Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; buộc bị cáo Dương Đức M phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, báo cho bị cáo Dương Đức M biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm/.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 218/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:218/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;