TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 212/2023/HC-PT NGÀY 10/04/2023 VỀ KHIẾU KIỆN QUYẾT ĐỊNH HỦY THÔNG BÁO THU HỒI ĐẤT
Ngày 10 tháng 4 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và điểm cầu thành phần tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang, xét xử phúc thẩm trực tuyến công khai vụ án hành chính thụ lý số 804/2022/TLPT-HC ngày 01 tháng 12 năm 2022 về “Khiếu kiện quyết định về việc hủy Thông báo thu hồi đất”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 63/2022/HC-ST ngày 24/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 544/2023/QĐPT-HC ngày 21 tháng 3 năm 2023 giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Bà Lê Thị T, sinh năm 1985 – Vắng mặt;
Địa chỉ: Khu phố 1, phường An Thới, thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang;
Người đại diện hợp pháp của người khởi kiện: Ông Thái Hoàng L, sinh năm 1964; Địa chỉ: Số 35, đường Nguyễn An Ninh, phường Vĩnh Lạc, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang; Địa chỉ liên hệ: Số 48, đường Hoàng Hoa Thám, phường Vĩnh Thanh Vân, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (Văn bản ủy quyền ngày 16/11/2021) – Có mặt;
2. Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang;
Địa chỉ: Số 04, đường 30/4, thị trấn Dương Đông, thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang;
Người đại diện hợp pháp của người bị kiện: Ông Huỳnh Quang H – Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Phú Quốc – Có đơn xin xét xử vắng mặt;
3. Người kháng cáo: Ông Thái Hoàng L là người đại diện hợp pháp của người khởi kiện, bà Lê Thị T;
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 01/4/2021 và lời khai tiếp theo, người khởi kiện bà Lê Thị T và người đại diện hợp pháp của người khởi kiện trình bày:
Nguồn gốc diện tích 11.100 m2 tọa lạc ấp Đường Bào, xã Dương Tơ, huyện (nay là thành phố) Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang do ông Trần Văn Sỹ khai khẩn từ năm 1992, đến năm 2001 sang nhượng đất và thành quả lao động cho ông Trần Anh Dũng. Tháng 9/2010, ông Dũng chuyển nhượng lại cho bà Lê Thị T tiếp tục trồng Đào và Tràm bông vàng, canh tác liên tục cho đến nay.
Ủy ban nhân dân huyện Phú Quốc ban hành Thông báo số 976/TB-UBND ngày 28/12/2016 (sau đây viết tắt là Thông báo số 976) về việc thu hồi đất của bà Lê Thị T, diện tích 9.329,5 m2 tại thửa số 37, tờ bản đồ số 01 để thực hiện Dự án Khu dân cư Phú Quốc Housing, nhưng đến ngày 14/4/2020, Ủy ban nhân dân huyện Phú Quốc lại ra Quyết định số 1938/QĐ-UBND (sau đây viết tắt là Quyết định số 1938) hủy Thông báo số 976 với lý do:“Do bà Lê Thị T chiếm đất Nhà nước quản lý sử dụng sau ngày 01/7/2014”.
Do đó, bà Lê Thị T khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 1938.
Tại Công văn số 140/UBND-NCPC ngày 09/3/2022 và lời trình bày tiếp theo, người bị kiện Ủy ban nhân dân thành phố Phú Quốc do người đại diện hợp pháp trình bày:
Ngày 05/4/2012, Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang ban hành Công văn số 1152/VP-KTCN chấp thuận chủ trương cho Công ty Cổ phần Phát triển nhà Phú Quốc đầu tư Khu dân cư mật độ thấp tại xã Dương Tơ, huyện Phú Quốc; đến ngày 10/10/2012, Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang ban hành Công văn số 4156/VP-KTCN chấp thuận chủ trương lập quy hoạch mở rộng ranh giới đầu tư Khu dân cư Phú Quốc Housing tại xã Dương Tơ, huyện Phú Quốc.
Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang ban hành Công văn số 4789/VP-KTCN ngày 07/11/2014 về việc chấp thuận chủ trương thu hồi đất thực hiện Dự án Khu dân cư Phú Quốc Housing.
Ủy ban nhân dân huyện Phú Quốc ban hành Thông báo số 976/TB-UBND ngày 28/12/2016 về việc thu hồi đất để thực hiện Dự án Khu dân cư Phú Quốc Housing tại xã Dương Tơ, huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang đối với bà Lê Thị T, diện tích đất dự kiến thu hồi là 9.329,50 m2.
Theo biên bản thẩm định ngày 18/7/2017 của Hội đồng thẩm định ngoại nghiệp công trình Khu dân cư Phú Quốc Housing, thì phần diện tích 9.329,50 m2 bà Lê Thị T kê khai có 45 cây tràm bông vàng loại B, 15 cây Tràm út loại B, hạng mục công trình gồm 4.041,60 m3 (công đào mương).
Ngày 02/8/2018, Hội đồng Tư vấn xã Dương Tơ tiến hành xét duyệt nguồn gốc đất cho các hộ dân trong khu vực quy hoạch Dự án Khu dân cư Phú Quốc Housing, trong đó diện tích 9.329,50 m2 do hộ bà Lê Thị T kê khai, theo nội dung Biên bản xét duyệt:“Toàn bộ diện tích đất này nằm trong ranh Rừng phòng hộ theo Quyết định 2163/QĐ-UBND ngày 18/6/1998, nay điều chỉnh theo Quyết định 2600/QĐ-UBND ngày 14/12/2012 của UBND tỉnh Kiên Giang giao cho UBND xã Dương Tơ quản lý. Diện tích 9.329,50 m2 nguồn gốc trước ngày 01/7/2014 đất Nhà nước quản lý đến năm 2016 đo đạc lập phương án hộ bà T vào kê khai. Phần diện tích 2.193,2 m2 có cây trồng rải rác, phần diện tích 7.136,3 m2 không có cây trồng”. Do đó, việc bà Lê Thị T cho rằng có quá trình sử dụng diện tích 9.329,50 m2 từ năm 1992 do ông Trần Văn Sỹ khai khẩn, đến năm 2001 sang nhượng thành quả lao động và đất lại cho ông Trần Anh Dũng. Tháng 9/2010, ông Dũng chuyển nhượng lại cho bà T, trên đất có trồng Đào và Tràm bông vàng là không đúng thực tế quá trình sử dụng đất.
Ngày 18/12/2019, Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư huyện (nay là thành phố) Phú Quốc họp giải quyết vướng mắc trong quá trình lập Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư Dự án Khu dân cư Phú Quốc Housing, nội dung: “Đối với trường hợp bao chiếm, lấn chiếm đất rừng, đất Nhà nước quản lý sau ngày 01/7/2014: Không đưa tên vào Phương án”.
Ngày 14/4/2020, Ủy ban nhân dân huyện Phú Quốc ra Quyết định số 1938/QĐ-UBND về việc hủy Thông báo số 976/TB-UBND ngày 28/12/2016 về việc thu hồi đất để thực hiện Dự án Khu dân cư Phú Quốc Housing.
Việc Ủy ban nhân dân huyện (nay là thành phố) Phú Quốc ban hành Quyết định số 1938 là đúng quy định của pháp luật, vì bà T không có quyền và lợi ích hợp pháp trên phần diện tích đất 9.329,50 m2. Đề nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của bà T.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 63/2022/HC-ST ngày 24/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang đã quyết định:
Căn cứ các điều 30, 32, 116, 158, 164, 193, 194 Luật tố tụng hành chính; Điều 12 và Điều 69 Luật Đất đai năm 2013; Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai năm 2013; Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị T.
Hủy một phần Quyết định số 1938/QĐ-UBND ngày 14/4/2020 của Ủy ban nhân dân thành phố Phú Quốc về việc hủy Thông báo số 976/TB-UBND ngày 28/12/2016 của Ủy ban nhân dân thành phố Phú Quốc, về việc thu hồi đất để thực hiện Dự án Khu dân cư Phú Quốc Housing tại xã Dương Tơ, thành phố Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, có nội dung:“Lý do: Do bà Lê Thị T chiếm đất Nhà nước quản lý sử dụng sau ngày 01/7/2014”.
Ngoài ra Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí hành chính sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 06/6/2022, ông Thái Hoàng L là người đại diện hợp pháp của bà Lê Thị T có đơn kháng cáo yêu cầu sửa Bản án sơ thẩm, hủy toàn bộ Quyết định số 1938.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
Ông Thái Hoàng L là người đại diện hợp pháp của bà Lê Thị T giữ nguyên kháng cáo yêu cầu sửa Bản án sơ thẩm, hủy toàn bộ Quyết định số 1938, với các lý do sau đây:
- Lý do để ban hành Quyết định số 1938 đã bị Tòa án hủy, thì phải hủy toàn bộ Quyết định số 1938 mới đúng;
- Nếu Thông báo số 976 sai, thì Ủy ban nhân dân thành phố Phú Quốc phải ban hành văn bản mới để trên cơ sở đó người dân thực hiện quyền của mình đối với phần đất bị thu hồi hoặc khởi kiện theo quy định của pháp luật;
- Sau khi Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử, thì Ủy ban nhân dân thành phố Phú Quốc tiếp tục ban hành Thông báo số 1563/TB-UBND ngày 28/7/2022 (sau đây viết tắt là Thông báo số 1563), có nội dung chấm dứt hiệu lực đối với Thông báo số 976. Như vậy, Thông báo số 976 có đến 02 văn bản điều chỉnh, là Quyết định số 1938 và Thông báo số 1563;
- Thông báo số 976 được ban hành đảm bảo đúng quy định tại Điều 67 và khoản 1 Điều 69 Luật Đất đai năm 2013, còn Quyết định số 1938 trái với quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Đất đai năm 2013.
- Tất cả những người dân ở đây không ai được biết đến Quyết định thành lập rừng phòng hộ, không thấy Nhà nước cắm cọc mốc ranh giới rừng phòng hộ. Bà Lê Thị T sử dụng đất lâu dài, ổn định, không bị Nhà nước xử lý vi phạm hành chính, nên bà T sử dụng đất là hoàn toàn phù hợp;
- Trong dự án này có 08 vụ kiện hoàn toàn giống nhau, nhưng Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang hủy toàn bộ quyết định bị kiện 03 trường hợp đối với ông Phương, ông Dũng, ông Chiến. Còn lại 05 trường hợp thì Tòa án chỉ hủy một phần quyết định bị kiện.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến Hội đồng xét xử và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Luật tố tụng hành chính; Đơn kháng cáo hợp lệ. Về nội dung đề nghị bác kháng cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Văn bản ủy quyền của bà Lê Thị T có nội dung cho ông Thái Hoàng L được quyền kháng cáo bản án và tham gia giải quyết tại Tòa án cấp phúc thẩm. Theo quy định tại khoản 6 Điều 205 Luật tố tụng hành chính, Đơn kháng cáo của ông Thái Hoàng L đảm bảo hình thức, thời hạn, đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Phiên tòa đã được triệu tập hợp lệ, người bị kiện có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Theo quy định tại Điều 225 Luật tố tụng hành chính, việc xét xử phúc thẩm vẫn được tiến hành.
Thông báo số 1563 được ban hành sau khi Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang đã xét xử sơ thẩm, chưa được Bản án sơ thẩm đề cập giải quyết, nên theo quy định tại Điều 220 Luật tố tụng hành chính, không thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm.
[2] Bà Lê Thị T khởi kiện đối với quyết định hành chính của Ủy ban nhân dân huyện (nay là thành phố) Phú Quốc trong lĩnh vực đất đai trong thời hạn chưa quá 01 năm kể từ ngày có quyết định bị khởi kiện. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định về thời hiệu khởi kiện, đối tượng khởi kiện, thẩm quyền giải quyết vụ án là đúng quy định tại các điều 30, 32, 116 Luật tố tụng hành chính.
[3] Quyết định số 1938/QĐ-UBND ngày 14/4/2020 của Ủy ban nhân dân huyện Phú Quốc được ban hành đảm bảo về hình thức, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn theo quy định của pháp luật.
[4] Dự án Khu dân cư Phú Quốc Housing tại xã Dương Tơ chỉ mới có ý kiến chấp thuận của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, nhưng chưa được Hội đồng nhân dân tỉnh chấp thuận, nên việc Ủy ban nhân dân huyện Phú Quốc ban hành Thông báo số 976/TB-UBND ngày 28/12/2016 thu hồi đất là không đúng quy định tại khoản 3 Điều 62 Luật Đất đai năm 2013. Do đó, Ủy ban nhân dân huyện Phú Quốc ban hành Quyết định số 1938/QĐ-UBND ngày 14/4/2020 hủy Thông báo số 976/TB-UBND ngày 28/12/2016 là có cơ sở.
Vì vậy, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của người đại diện hợp pháp của bà Lê Thị T, giữ nguyên Bản án sơ thẩm theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp.
[5] Do không được chấp nhận kháng cáo nên bà Lê Thị T phải chịu án phí hành chính phúc thẩm.
[6] Quyết định của Bản án sơ thẩm về án phí hành chính sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính; Điều 34 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
2. Không chấp nhận kháng cáo của ông Thái Hoàng L là người đại diện hợp pháp của người khởi kiện, bà Lê Thị T; Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 63/2022/HC-ST ngày 24/5/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị T.
Hủy phần nội dung:“Lý do: Do bà Lê Thị T chiếm đất Nhà nước quản lý sử dụng sau ngày 01/7/2014”, tại Điều 1 Quyết định số 1938/QĐ-UBND ngày 14/4/2020 của Ủy ban nhân dân huyện (nay là thành phố) Phú Quốc về việc hủy Thông báo số 976/TB-UBND ngày 28/12/2016 của Ủy ban nhân dân huyện (nay là thành phố) Phú Quốc, về việc thu hồi đất để thực hiện Dự án Khu dân cư Phú Quốc Housing tại xã Dương Tơ, huyện (nay là thành phố) Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.
3. Bà Lê Thị T phải nộp án phí hành chính phúc thẩm là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) và được khấu trừ tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu số 0009879 ngày 20/6/2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Kiên Giang;
4. Quyết định của Bản án sơ thẩm về án phí hành chính sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 212/2023/HC-PT về khiếu kiện quyết định hủy thông báo thu hồi đất
Số hiệu: | 212/2023/HC-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Ngày ban hành: | 10/04/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về