Bản án 212/2019/HNGĐ-ST ngày 23/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 212/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 23 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 502/2019/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 264/2019/QĐXX-ST ngày 21 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Trần Văn S, sinh năm 1977.

Địa chỉ: Ấp S, xã P, huyện T, tỉnh Cà Mau

- Bị đơn: Chị Dương Cẩm T, sinh năm 1987.

Địa chỉ: Ấp 10B, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau

(Nguyên đơn xin vắng mặt, bị đơn vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 22/7/2019, nguyên đơn anh Trần Văn S trình bày:

- Về hôn nhân: Anh và chị Dương Cẩm T chung sống với nhau từ năm 2006; nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định, hôn nhân tự nguyện. Nguyên nhân dẫn đến ly hôn là trong thời gian chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cải nhau, chị T đã bỏ nhà đi nhiều lần, lần cuối cùng vào tháng 5/2012 không trở về, gia đình có đi tìm nhưng không có tin tức. Sau đó anh có yêu cầu Tòa án tuyên bố mất tích đối với chị Dương Cẩm T. Tại quyết định số 10/2017/QĐST-HNGĐ ngày 24/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời tuyên bố chị Dương Cẩm T mất tích. Nay anh yêu cầu được ly hôn với chị T.

- Về con chung: Trong thời gian chung sống anh S và chị T có 01 người con chung tên Trần Nhật H, sinh ngày 11/03/2007. Hiện đang sống chung với anh và đang đi học.

- Về tài sản chung,nợ chung: Anh S xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Đồng thời anh yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt, do điều kiện đi lại khó khăn; anh vẫn bảo lưu ý kiến đã trình bày trong đơn khởi kiện, mong Tòa án xem xét giải quyết.

Bị đơn chị Dương Cẩm T: Tòa án đã tuyên bố mất tích theo Quyết định số 10/2017/QĐST-HNGĐ ngày 24/7/2017 của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Đến thời điểm xét xử chị Dương Cẩm T vẫn vắng mặt tại tòa; không có văn bản nêu ý kiến gửi đến Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền của tòa án: Bị đơn chị Dương Cẩm T có nơi trú cuối cùng tại ấp 10B, xã T, huyện T, tỉnh Cà Mau nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Anh Trần Văn S khởi kiện yêu cầu ly hôn đối với chị Dương Cẩm T. Vì vậy, quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án được xác định là "Ly hôn, tranh chấp nuôi con" theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; anh S là người khởi kiện nên xác định tư cách đương sự anh S là nguyên đơn, chị T là bị đơn được quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 68 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về thủ tục tố tụng: Anh S có yêu cầu xét xử vắng mặt; chị T vắng mặt; Căn cứ theo khoản 1, khoản 2 Điều 227 và khoản 1, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Anh Trần Văn S và chị Dương Cẩm T không còn tình cảm thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc giúp đỡ nhau, anh S và chị T đã vi phạm nghĩa vụ sống chung của vợ chồng được quy định tại Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị T đã bỏ nhà ra đi từ năm 2012 cho đến nay vẫn không có tin túc gì.

Xét, mâu thuẫn giữa anh S và chị T là thực tế có xảy ra; đồng thời hôn nhân có vi phạm về mặt hình thức nên không được công nhận là vợ chồng phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 9; khoản 1 Điều 14; Điều 15; khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số: 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06 tháng 01 năm 2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh S, cho anh S được ly hôn với chị T.

[5] Về con chung: Anh S và chị T có 01 người con tên Trần Nhật H, sinh ngày 11/3/2007. Khi ly hôn anh yêu cầu được trực tiếp nuôi con.

Xét, con chung tên Trần Nhật H, sinh ngày 11/3/2007. Hiện đang sống chung với anh từ khi chị T đã bỏ đi cho đến nay và đã được Tòa án tuyên bố mất tích, cháu Huy sống gần gũi với anh, ổn định về thời gian, phát triển tốt về mọi mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, tiếp tục giao cháu Trần Nhật H, sinh ngày 11/3/2007 cho anh S trực tiếp nuôi dưỡng, tòa án không ghi nhận ý kiến của cháu Huy vì chị T đã được Tòa án tuyên bố mất tích. Nếu sau này chị T có trở về thì chị T có quyền thăm nom, chăm sóc nuôi dạy con chung không ai có quyền ngăn cản. Anh S không đặt ra cấp dưỡng.

[6] Về tài sản chung và nợ: Anh S xác định không có; nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[7] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc anh S phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 và khoản 3 Điều 68; khoản 4 Điều 147; khoản 1, khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238; Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 9; Điều 14; Điều 15; Điều 51; Điều 53; Điều 56; Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 3 Thông tư liên tịch số: 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1.Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Trần Văn S về việc ly hôn với chị Dương Cẩm T.

Về hôn nhân: Không công nhận anh Trần Văn S và chị Dương Cẩm T là vợ chồng.

Về con chung: Tiếp tục giao cháu Trần Nhật H, sinh ngày 11/3/2007, cho anh Trần Văn S được trực tiếp nuôi dưỡng. Chị T không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom, chăm sóc nuôi dạy con chung không ai có quyền ngăn cản.

2. Về án phí: Anh Trần Văn S phải nộp số tiền 300.000 đồng; ngày 24/7/2019 anh S đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0003468 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Trần Văn Thời, nay được chuyển thu án phí.

3. Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án này trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 212/2019/HNGĐ-ST ngày 23/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:212/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;