Bản án 21/2020/HNGĐ-ST ngày 14/08/2020 về kiện ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 21/2020/HNGĐ-ST NGÀY 14/08/2020 VỀ KIỆN LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 14/8/2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Lào Cai, Toà án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 55/2020/TLST - HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2020 về việc kiện “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự: Nguyên đơn: Chị Ngô Thị A ; sinh năm: 1991 dân tộc: Kinh; nghề nghiệp: giáo viên;

Hộ khẩu thương trú: Số 166, đường Lê Thanh, tổ 04, Phường Bắc Cường, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai Bị đơn: Anh Trần Đình Ch; sinh năm: 1987; dân tộc: Kinh; nghề nghiệp: tự do.

Hộ khẩu thương trú: Số 166, đường Lê Thanh, tổ 04, Phường B, thành phố L, tỉnh L Hiện đang thụ hình Đội 43 K2, phân trại số 02,Trại giam H, huyện T, tỉnh Y; Có đơn xin xét xử vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn chị Ngô Thị A trình bày:

Chị Ngô Thị A và anh Trần Đình Ch đăng ký kết hôn ngày 06/10/2008 tại Ủy ban nhân dân phường Kim Tân, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Hôn nhân dựa trên sự tìm hiểu, tự nguyện không do bên nào ép buộc. Thời gian đầu cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến cuối năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Trần Đình Ch mải chơi sa vào tệ nạn xã hội và nghiện ma túy, không tu chí làm ăn, không quan tâm chăm sóc gia đình, từ đó vợ chồng hay cãi, chửi nhau không thông cảm cho nhau. Mâu thuẫn xảy ra đã được gia đình và chính quyền địa phương hòa giải nhiều lần nhưng không được. Anh chị đã sống ly thân từ cuối năm 2016 đến năm 2020 anh Trần Đình Ch phạm tội mua bán trái phép chất ma túy và phải đi cải tạo tại đội 43 K2, phân trại số 02,Trại giam Hồng Ca, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái. Đến nay, chị Ngô Thị A thấy không thể tiếp tục chung sống cùng anh Trần Đình Ch nữa chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Đình Ch.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung là cháu Trần Thị Thùy Dương; sinh ngày 15/01/2009 ; cháu Trần Hà My; sinh ngày 03/10/2010 hiện đang sống với chị Ngô Thị A . Sau khi ly hôn chị Ngô Thị A đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được nuôi con, không yêu cầu anh Trần Đình Ch phải cấp dưỡng nuôi con chung Về tài sản: Chị Ngô Thị A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 23/6/2020, bị đơn anhTrần Đình Chtrình:

Anh và chị Ngô Thị A tự nguyện tìm hiểu yêu thương và kết hôn với nhau năm 2008 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Kim Tân, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Hôn nhân dựa trên sự tìm hiểu, tự nguyện không do nào ép buộc, đến cuối năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là anh nguyên nhân là do anh nghiện ma túy và không quan tâm đến gia đình, từ đó vợ chồng hãy cãi, chửi nhau. Từ cuối năm 2016 anh và chị Ngô Thị A đã sống ly thân, đến năm 2020 thì anh bị bắt về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và hiện nay đang cải tạo tại đội 43 K2, phân trại số 02,Trại giam Hồng Ca, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái. Đến nay, chị Ngô Thị A xin ly hôn anh nhất trí ly hôn và đề nghị Tòa án giải quyết vụ án vắng mặt anh.

Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung là cháu Trần Thị Thùy Dương; sinh ngày 15/01/2009 và cháu Trần Hà My; sinh ngày 03/10/2010 hiện đang sống với chị Ngô Thị A . Khi ly hôn anh nhất trí để chị Ngô Thị A được trực tiếp nuôi con, anh không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Anh Trần Đình Chkhông yêu cầu tòa án giải quyết.

Anh Trần Đình Chcó đơn xin xét xử vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Ngô Thị A có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai giải quyết việc ly hôn với anh Trần Đình Ch có hộ khẩu thường trú tại: Địa chỉ: Số 166, đường Lê Thanh, tổ 04, Phường Bắc Cường, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai Hiện đang thụ hình Đội 43 K2, phân trại số 02,Trại giam Hồng Ca, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái, theo quy định tại khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Lào Cai đã giải quyết vụ án đúng thời hạn, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, người tham gia tố tụng không có khiếu nại gì về hành vi và các quyết định tố tụng, do đó hành vi và các văn bản tố tụng đó là hợp pháp. Tại phiên tòa hôm nay, bị đơn anh Trần Đình Chvắng mặt, nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, do vậy vụ án được giải quyết theo thủ tục chung.

[2] Về hôn nhân: Chị Ngô Thị A và anh Trần Đình Ch có đăng ký kết hôn ngày 06/10/2008 tại Ủy ban nhân dân phường Kim Tân, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Hôn nhân dựa trên sự tìm hiểu, tự nguyện không do bên nào ép buộc. Do vậy đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Trong quá trình chung sống đã phát sinh mâu thuẫn, Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Trần Đình Ch nghiện ma túy, vợ chồng không thông cảm cho nhau, thường hay cãi, chửi nhau. Mâu thuẫn xảy ra được chính quyền địa phương, bạn bè khuyên giải nhưng không được. Chị Ngô Thị A và anh Trần Đình Ch đã sống ly thân, từ cuối năm 2016 đến 2020 thì anh Trần Đình Ch bị bắt và hiện nay đang cải tạo tại đội 43 K2, phân trại số 02,Trại giam Hồng Ca, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái. Như vậy mẫu thuẫn vợ chồng giữa chị Ngô Thị A và anh Trần Đình Ch đã trở lên trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài. Tại phiên tòa hôm nay chị Ngô Thị A cương quyết đề nghị Tòa án giải quyết để chị được ly hôn với anh Trần Đình Ch . Xét thấy mâu thuẫn gia đình chị Ngô Thị A và anh Trần Đình Ch đã trở lên trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, không ai quan tâm đến ai, vợ chồng đã sống ly thân nên cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt. Vậy cần chấp nhận đơn khởi kiện ly hôn của chị Ngô Thị A giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Đình Ch theo quy định khoản 1 Điều 51; Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình là phù hợp với pháp luật.

[3] Về con chung: Xét việc giao nuôi con thấy rằng anh Trần Đình Ch hiện đang chấp hành án, cháu Trần Thị Thùy Dương; sinh ngày 15/01/2009 và cháu Trần Hà My; sinh ngày 03/10/2010 hiện đang sống với chị Ngô Thị A . Chị Ngô Thị A là giáo viên có thu nhập khoảng 5.000.000 đồng/tháng. Căn cứ điều 81 ; 82 ;83 Luật hôn nhân và gia đình giao cháu Trần Thị Thùy Dương; sinh ngày 15/01/2009 và cháu Trần Hà My; sinh ngày 03/10/2010 cho chị Ngô Thị A trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp với quy định của pháp luật. AnhTrần Đình Ch không phải cấp dưỡng nuôi con chung .

[4] Về tài sản chung: Chị Ngô Thị A không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Bị đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Nên áp dụng khoản 1 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp.

[5] Về án phí: Chị Ngô Thị A phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn.

Từ những nhận định trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 51; Điều 56 ; 81 ;82 ;83 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 điều 147; khoản 1 điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng , án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Ngô Thị A được ly hôn anh Trần Đình Ch.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Thị Thùy Dương; sinh ngày 15/01/2009 và cháu Trần Hà My; sinh ngày 03/10/2010 cho chị Ngô Thị A trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. AnhTrần Đình Ch không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Trần Đình Ch có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền cản trở anh Trần Đình Ch thực hiện quyền này.

3. Về án phí: Chị Ngô Thị A phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn. Xác nhận chị Ngô Thị A đã nộp tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AB/2012/0008254 ngày 06/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lào Cai, được trừ vào tiền án phí phải nộp.

Chị Ngô Thị A được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án. Anh Trần Đình Ch được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết, tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 21/2020/HNGĐ-ST ngày 14/08/2020 về kiện ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:21/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;