TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI, TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 13/2018/HNGĐ-ST NGÀY 20/03/2018 VỀ KIỆN XIN LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 20/3/2018, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Lào Cai, Toà án nhân dân thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 308/2017/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 11 năm 2018 về việc kiện “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2018/QĐXXST - HNGĐ ngày 07/2/2018 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Nông Thị Th - Sinh năm 1989.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Tr, xã T, thành phố L, tỉnh Lào Cai
Nơi ở: Thôn C, xã H, thành phố L, tỉnh Lào Cai - Có mặt;
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Bà Lê Họa Thu - Trợ giúp viên trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lào Cai - Có mặt;
2. Bị đơn: Anh Lương Văn Ngh - Sinh năm 1976.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn Tr, xã T, thành phố L, tỉnh Lào Cai - Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nông Thị Th trình bày:
Chị Nông Thị Th và anh Lương Văn Ngh tự nguyện tìm hiểu yêu thương và kết hôn với nhau năm 2006 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, thành phố L. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc và sinh được hai người con đến tháng 8/2014 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do anh anh Lương Văn Ngh thường xuyên uống rượu say, chửi mắng, đánh đập vợ con không chịu làm ăn. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình hòa giải nhưng không khắc phục được. Do mâu thuẫn quá căng thẳng lên tháng 6/2017 chị Nông Thị Th đã đưa cháu Lương Thị Lệ Ch về nhà mẹ đẻ ở thôn C, xã H, thành phố L sinh sống, vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Chị Nông Thị Th xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lương Văn Ngh
- Về con chung: Trong quá trình chung sống vợ chồng có 02 người con chung là cháu Lương Thị Lệ Ch - Sinh ngày 18/8/2007; cháu Lương Gia L - Sinh ngày 10/6/2012. Chị Nông Thị Th đề nghị Tòa án giải quyết cho chị Nông Thị Th được nuôi dưỡng cháu Lương Thị Lệ Ch, anh Lương Văn Ngh nuôi dưỡng cháu Lương Gia L cho đến tuổi trưởng thành, không bên nào phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho bên nào
- Về tài sản: Chị Nông Thị Th không yêu cầu tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Lương Văn Ngh: Sau khi Toà án thụ lý vụ án, Toà án đã tiến hành tống đạt, niêm yết đầy đủ các giấy tờ tố tụng của Toà án cho anh Lương Văn Ngh nhưng anh Lương Văn Ngh không có văn bản trả lời và cũng không đến toà án làm bản tự khai, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải. Vì vậy Toà án đã đưa vụ án ra xét xử.
Tại phiên tòa chị Nông Thị Th giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị Nông Thị Th đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình: Xử cho chị Nông Thị Th được ly hôn anh Lương Văn Ngh; Về con chung xử cho chị Nông Thị Th được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Lương Thị Lệ Ch - Sinh ngày 18/8/2007; Anh Lương Văn Ngh được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Lương Gia L - Sinh ngày 10/6/2012 cho đến tuổi trưởng thành, không bên nào phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng bên nào
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Bị đơn anh Lương Văn Ngh sau khi thụ lý vụ án Toà án đã tiến hành tống đạt, niêm yết đầy đủ các giấy tờ tố tụng của Toà án cho anh Lương Văn Ngh nhưng anh Lương Văn Ngh không có văn bản trả lời và cũng không đến toà án làm bản tự khai, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải; Tại phiên tòa anh Lương Văn Ngh vắng mặt lần thứ 2 không có lý do. Vì vậy Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt anh Lương Văn Ngh.
[2] Về hôn nhân: Chị Nông Thị Th và anh Lương Văn Ngh tự nguyện tìm hiểu yêu thương và kết hôn với nhau năm 2006 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tả Phời, thành phố Lào Cai. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc và sinh được hai người con đến tháng 8/2014 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do anh anh Lương Văn Ngh thường xuyên uống rượu say, chửi mắng vợ con không chịu làm ăn. Từ tháng 6/2017 chị Nông Thị Th đã đưa cháu Lương Thị Lệ Ch về nhà mẹ đẻ ở thôn C, xã H, thành phố L sinh sống, vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Việc vợ chồng mâu thuẫn đã sống ly thân có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã T và Ủy ban nhân dân xã H. Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nông Thị Th đối với anh Lương Văn Ngh.
[3] Về con chung: Xét việc giao nuôi con thì thấy rằng hiện nay cháu Lương Thị Lệ Ch đang sinh sống cùng chị Nông Thị Th tại thôn C, xã H, chị Th có thu nhập từ 3.000.000 - 3.500.000 đồng;/tháng, cháu Lương Thị Lệ Ch có nguyện vọng được ở cùng chị Th; Cháu Lương Gia L đang sinh sống cùng anh Lương Văn Ngh tại thôn Tr, xã T, anh Ngh có thu nhập 3.500.000 đồng/tháng. Căn cứ điều 81, 82 Luật hôn nhân và gia đình giao cháu Lương Thị Lệ Ch cho chị Nông Thị Th; Giao cháu Lương Gia L cho anh Lương Văn Ngh trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi các cháu trưởng thành, không bên nào phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng bên nào là phù hợp với quy định của pháp luật.
[4] Về tài sản chung: Chị Nông Thị Th không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí: Chị Nông Thị Th phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn.
Từ những nhận định trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 điều 227, điều 228; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án
1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Nông Thị Th và anh Lương Văn Ngh
2. Về con chung: Giao cháu Lương Thị Lệ Ch - Sinh ngày 18/8/2007 cho chị Nông Thị Th; Giao cháu Lương Gia L - Sinh ngày 10/6/2012 cho anh Lương Văn Ngh trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Không bên nào phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng bên nào. Các bên được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản.
3. Về án phí: Chị Nông Thị Th phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn. nhưng được khấu trừ vào số tiền tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AB/2012/0004735 ngày 16/11/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lào Cai. Xác nhận chị Nông Thị Th đã nộp đủ tiền án phí.
Chị Nông Thị Th được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Anh Lương Văn Ngh được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 13/2018/HNGĐ-ST ngày 20/03/2018 về kiện ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 13/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 20/03/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về