TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÀ LĨNH, TỈNH CAO BẰNG
BẢN ÁN 21/2018/HS-ST NGÀY 09/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 09 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng, tiến hành xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 21/2018/TLST-HS ngày 12/10/2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2018/QĐXXST-HS ngày 24/10/2018 đối với các bị cáo:
Đàm Ngọc T, tên gọi khác: Không. Sinh ngày: 26/3/1995 tại Trà Lĩnh, Cao Bằng. Hộ khẩu thường trú: xóm C, Thị trấn H, huyện T, Cao Bằng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: không; giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: lớp 10/12 phổ thông; Con ông Đàm Văn T, sinh năn: 1968 và bà Phan Thị L, sinh năn: 1966; vợ, con: Chưa có; Anh, chị, em: có 02 chị, em bị cáo là con út trong gia đình; Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 10/5/2016 bị Tòa án nhân dân huyện Trà Lĩnh xử phạt
03 tháng 11 ngày tù về tội Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới quy định tại điểm c khoản 1 Điều 154, điểm h, p Điều 46 của BLHS; Năm 2017 bị Công an huyện Trà Lĩnh xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Chiếm giữ trái phép tài sản, quy định tại Điều 141 Bộ luật hình sự.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 08/8/2018, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng. Bị cáo có mặt tại phiên tòa. Nông Quốc T, tên gọi khác: Không. Sinh ngày: 19/5/1990 tại Trà Lĩnh, Cao Bằng.
Nơi thường trú: xóm C, Thị trấn H, huyện T, Cao Bằng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: không; giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: lớp 11/12 phổ thông; Con ông Nông Lã T, sinh năm: 1965 và bà Bế Thị H, sinh năm: 1965; vợ: Đàm Thị T, sinh năm 1982; con: có 01 con, sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 03/10/2012 bị Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng ra Quyết định đưa vào Cơ sở giáo dục trong thời hạn 24 tháng.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 08/8/2018, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng. Bị cáo có mặt tại phiên tòa. Ngƣời bị hại: Hoàng Văn S,(Tên gọi khác Hoàng Đức S) sinh năm: 1954,
Trú quán: xóm C, Thị trấn H, huyện T, Cao Bằng, Có mặt. Ngƣời có quyền lợi liên quan: Bà Bế Thị H, sinh năm 1965; Trú quán: xóm C, Thị trấn H, huyện T, Cao Bằng, Có mặt. Ngƣời làm chứng:
1. Anh Hoàng Văn B, sinh năm 1989;
Trú quán: xóm C, Thị trấn H, huyện T, Cao Bằng, vắng mặt.
2. Chị Đàm Thị T, sinh năm 1982;
Trú quán: xóm C, Thị trấn H, huyện T, Cao Bằng, Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 11 tháng 7 năm 2018, Đàm Ngọc T, sinh năm 1995, trú tại xóm C, thị trấn H, huyện T, tỉnh Cao Bằng rủ Nông Quốc T, sinh năm 1990, trú tại xóm C, thị trấn H, huyện T, tỉnh Cao Bằng đi chặt trộm cây gỗ xoan hôi tại đồi Roỏng Nỏa, xóm C, thị trấn H, huyện T, tỉnh Cao Bằng thuộc quyền sở hữu của ông Hoàng Văn S, sinh năm 1954, trú tại xóm C, thị trấn H, huyện T, tỉnh Cao Bằng để đem bán lấy tiền mua ma túy sử dụng cho bản thân, nhưng T không đồng ý. Đến khoảng 17 giờ 00 ngày 12/7/2018 T và T gặp nhau tại đầu cầu Việt Nhật thuộc tổ dân phố 2, thị trấn H, huyện T, tỉnh Cao Bằng. Tại đây T tiếp tục rủ T đi chặt trộm cây gỗ xoan hôi và được T đồng ý. Sau đó T đã dùng xe mô tô nhãn hiệu Magic 100, biển kiểm soát 20F1-3738 đi về nhà T lấy 01 (một) con dao (loại dao quắm), có cán bằng gỗ hình tròn, rồi quay lại cầu Việt Nhật đón và chở T cùng đi đến chân đồi Roỏng Nỏa thuộc xóm C, thị trấn H, huyện T, tỉnh Cao Bằng thì dừng xe lại ở bên đường để đi bộ cùng nhau lên đồi khoảng 30 mét đến vị trí có cây xoan hôi mà T đã thấy từ trước đó, thay nhau dùng con dao được chuẩn bị từ trước chặt khoảng một tiếng đồng hồ thì cây đổ. Sau đó T và T tiếp tục chặt cây gỗ xoan hôi trên ra thành 03 (ba) khúc gỗ có kích thước lần lượt là: 01 (một) khúc gỗ có chiều dài 2.40 mét (hai phảy bốn mươi mét) đường kính hai đầu lần lượt là 30cm (ba mươi Centimet) và 25cm (hai mươi năm Centimet); 01 (một) khúc gỗ có chiều dài 2.60 mét (hai phảy sáu mươi mét), đường kính hai đầu lần lượt là 23cm (hai mươi ba Centimet) và 19cm (mười chín Centimet); 01 (một) khúc gỗ có chiều dài 2.70 mét (hai phảy bảy mươi mét)đường kính hai đầu lần lượt là 19cm (mười chín Centimet) và 15cm (mười năm Centimet). Rồi cùng nhau lăn lần lượt từng khúc gỗ đến vị trí xe mô tô để tập kết.
Đến khoảng 21 giờ 00 cùng ngày, T dùng xe mô tô nhãn hiệu Magic 100 biển kiểm soát 20F1-3738 cùng T vận chuyển lần lượt từng khúc gỗ xoan hôi đến xưởng mộc ở xóm N, Thị trấn H, huyện T, tỉnh Cao Bằng để tiêu thụ. Tuy nhiên khi vận chuyển đến nơi thì xưởng mộc đã đóng cửa nên T và T để các khúc gỗ tại trước cửa xưởng mộc đợi đến khi vận chuyển hết 03 (ba) khúc gỗ xoan hôi trên sẽ gọi chủ xưởng mộc để trao đổi mua bán. Khi đang vận chuyển khúc gỗ thứ ba thì bị ông Hoàng Văn S và Tổ công tác thuộc Công an huyện Trà Lĩnh phối hợp với Công an thị trấn H phát hiện và bắt quả tang, thu giữ: 03 (ba) khúc gỗ xoan hôi; tạm giữ: 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Magic 100 biển kiểm soát 20F1-3738; 01 (một) con dao (loại dao quắm) màu đen chiều dài cả cán 45cm, được tra 01 đoạn gỗ tròn dài 10cm. Sau đó, T và T được đưa về trụ sở Ủy ban nhân dân Thị trấn H để làm việc. Tại đây T và T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu ở trên. Vụ việc trên đã được ông Hoàng Văn S tố giác đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trà Lĩnh và yêu cầu xử lý theo quy định của pháp luật.
Ngày 23 tháng 7 năm 2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trà Lĩnh ra Yêu cầu định giá tài sản đối với vật chứng của vụ án. Tại bản Kết luận định giá tài sản số 12/KL-ĐGTS ngày 31 tháng 7 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Trà Lĩnh kết luận: “03 khúc gỗ xoan hôi có giá trị là 2.100.000 (Hai triệu một trăm nghìn đồng)”.
Bản cáo trạng số: 19/CT-VKSTL ngày 12/10/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng đã truy tố bị cáo Đàm Ngọc T và Nông Quốc T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa, bị cáo Đàm Ngọc T và Nông Quốc T đều thừa nhận cáo trạng truy tố các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng và khai nhận hành vi phạm tội. Các bị cáo nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật, các bị cáo xin chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Tại phiên tòa, người bị hại ông Hoàng Văn S: Về nội dung vụ án đúng như cáo trạng đã phản ánh còn về mức bồi thường tôi đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường gì thêm; Về hình phạt đối với các bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo.
Tại phiên tòa, người có quyền lợi liên quan Bế Thị H trình bày: Tôi đã nhận lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu Magic 100, về con dao quắm là tài sản của gia đình nên mong Hội đồng xét xử trả lại cho gia đình.
Người làm chứng Đàm Thị T khai báo tại phiên tòa: Khi chồng chị là bị cáo T về nhà lấy dao thì chị không được biết và cũng mong Hội đồng xét xử xem xét trả lại con dao quắm cho gia đình.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo và đề nghị: áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với hai bị cáo và tuyên bố bị cáo Đàm Ngọc T và Nông Quốc T phạm tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị xử phạt bị cáo Đàm Ngọc T từ 12 đến 15 tháng tù; Xử phạt bị cáo Nông Quốc T từ 09 đến 12 tháng tù.
Về vật chứng vụ án: Đề nghị xử lý theo Điều 47 của Bộ luật hình sự 2015, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Về trách nhiệm dân sự: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trà Lĩnh đã trả lại tài sản cho người bị hại, tại phiên tòa, người bị hại không yêu cầu bồi thường thêm nên không xem xét.
Về hình phạt bổ sung: Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo do các bị cáo không có thu nhập ổn định.
Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, các bị cáo Đàm Ngọc T và Nông Quốc T đã biết lỗi lầm của mình không tranh luận chỉ mong Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án nhẹ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên- Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Trà Lĩnh; Kiểm sát viên- Viện kiểm sát nhân dân huyện Trà Lĩnh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi liên quan và người làm chứng không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội của các bị cáo, các yếu tố cấu thành tội phạm: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Đàm Ngọc T và Nông Quốc T nhận tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi phạm tội của các bị cáo thể hiện như sau:
Khoảng 17 giờ 00 ngày 12/7/2018 T và T gặp nhau tại đầu cầu Việt Nhật thuộc tổ dân phố 2, thị trấn H, huyện T, tỉnh Cao Bằng. Tại đây T tiếp tục rủ T đi chặt trộm cây gỗ xoan hôi tại đồi Roỏng Nỏa, xóm C, thị trấn H, huyện T, tỉnh Cao Bằng thuộc quyền sở hữu của ông Hoàng Văn S, sinh năm 1954, trú tại xóm C, thị trấn H, huyện T, tỉnh Cao Bằng để đem bán lấy tiền mua ma túy sử dụng cho bản thân và được T đồng ý (trước đó T đã rủ T). Sau đó T đã dùng xe mô tô nhãn hiệu Magic 100, biển kiểm soát 20F1-3738 đi về nhà T lấy 01 (một) con dao (loại dao quắm), có cán bằng gỗ hình tròn, rồi quay lại cầu Việt Nhật đón và chở T cùng đi đến chân đồi Roỏng Nỏa thuộc xóm C, thị trấn H, huyện T, tỉnh Cao Bằng thì dừng xe lại ở bên đường để đi bộ cùng nhau lên đồi khoảng 30 mét đến vị trí có cây xoan hôi mà T đã thấy từ trước đó, thay nhau dùng con dao được chuẩn bị từ trước chặt khoảng một tiếng đồng hồ thì cây đổ. Sau đó T và T tiếp tục chặt cây gỗ xoan hôi trên ra thành 03 (ba) khúc. Rồi cùng nhau lăn lần lượt từng khúc gỗ đến vị trí xe mô tô để tập kết và đến khoảng 21 giờ 00 cùng ngày, T dùng xe mô tô nhãn hiệu Magic 100 biển kiểm soát 20F1-3738 cùng T vận chuyển lần lượt từng khúc gỗ xoan hôi đến xưởng mộc ở xóm N, thị trấn H, huyện T, tỉnh Cao Bằng để tiêu thụ thì bị cơ quan chức năng phát hiện, lập biên bản và theo kết quả định giá của Hội đồng định giá tài sản huyện Trà Lĩnh kết luận: “03 khúc gỗ xoan hôi có giá trị là 2.100.000 (Hai triệu một trăm nghìn đồng)”
Do đó, bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trà Lĩnh đã truy tố đối với các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Căn cứ lời khai của bị cáo, người bị hại, người làm chứng và các chứng cứ có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa. Hội đồng xét xử khẳng định bị cáo Đàm Ngọc T và Nông Quốc T đã phạm tội theo: “Điều 173. Tội trộm cắp tài sản:
1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
Xét tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Các bị cáo Đàm Ngọc T và Nông Quốc T là người có đầy đủ năng lực hành vi và năng lực trách nhiệm hìmh sự, nhận thức được trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng do bản thân lười lao động và muốn có tiền để sử dụng ma túy nên đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an địa phương và làm cho quần chúng nhân dân lo lắng. Do vậy, cần xử phạt nghiêm và phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Trong vụ án này bị cáo Đàm Ngọc T là người đã khởi xướng và thực hiện tội phạm nên bị cáo phải bị xử phạt nghiêm khắc hơn so với bị cáo Nông Quốc T. Bị cáo Nông Quốc T là người thực hiện tội phạm nên phải chịu trách nhiệm là đồng phạm trong vụ án.
[3]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[4]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai. Do vậy, các bị cáo được áp dụng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
[5]. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đàm Ngọc T và Nông Quốc T phạm tội “Trộm cắp tài sản ” và xử phạt bị cáo Đàm Ngọc T mức án từ 12 đến 15 tháng tù; Xử phạt bị cáo Nông Quốc T từ 09 đến 12 tháng tù. Hội đồng xét xử, xét thấy mức đề nghị của đại diện viện kiểm sát phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo và đúng pháp luật. Vậy nên, Hội đồng xét xử chấp nhận.
[6]. Về trách nhiệm dân sự: Đối với 03 (ba) khúc gỗ xoan hôi là vật chứng của vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trà Lĩnh đã ra Quyết định trả lại cho chủ sở hữu ông Hoàng Văn S vào ngày 29 tháng 8 năm 2018. Tại phiên tòa, người bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét giải quyết.
[7]. Về vật chứng của vụ án: Vật chứng của vụ án gồm:
- 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Magic 100 đã qua sử dụng, biển kiểm soát 20F1-3738, Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Trà Lĩnh đã trả lại cho chủ sở hữu là Bà Bế Thị H, trú tại: xóm C, Thị trấn H, huyện T, tỉnh Cao Bằng, theo biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 29/8/2018;
- 01( một) con dao bằng kim loại (loại dao quắm) đã qua sử dụng, chiều dài cả cán 45 cm, cán gỗ hình tròn có chiều dài 10 cm, dao có 01 lưỡi sắc. Là tài sản của bà Bế Thị H khi bị cáo T lấy và sử dụng vào việc phạm tội bà không biết nên cần trả lại cho bà Bế Thị H.
[8] .Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
[9]. Về án phí: Căn cứ vào Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[10]. Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; các Điều 106, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án đối với hai bị cáo.
Tuyên bố:
1. Các bị cáo Đàm Ngọc T và Nông Quốc T phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Đàm Ngọc T 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 08/8/2018.
Xử phạt bị cáo Nông Quốc T 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 08/8/2018.
2. Về trách nhiệm dân sự: Xác nhận, Đối với 03 (ba) khúc gỗ xoan hôi là vật chứng của vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Trà Lĩnh đã ra
Quyết định trả lại cho chủ sở hữu ông Hoàng Văn S vào ngày 29 tháng 8 năm2018. Tại phiên tòa, người bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hộiđồng xét xử không đặt vấn đề xem xét giải quyết.
3. Về xử lý vật chứng của vụ án: Xác nhận: 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Magic 100 đã qua sử dụng, biển kiểm soát 20F1-3738, Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Trà Lĩnh đã trả lại cho chủ sở hữu là Bà Bế Thị H, trú tại: xóm C, Thị trấn H, huyện T, tỉnh Cao Bằng, theo biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 29/8/2018;
- Trả lại cho Bà Bế Thị H, trú tại: xóm C, Thị trấn H, huyện T, Cao Bằng:
01(một) con dao bằng kim loại (loại dao quắm) đã quasử dụng, chiều dài cả cán 45 cm, cán gỗ hình tròn có chiều dài 10 cm, dao có 01 lưỡi sắc.
Xác nhận vật chứng trên hiện đang được bảo quản tại Kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15 tháng 10 năm 2018.
4. Về án phí: Các bị cáo Đàm Ngọc T và Nông Quốc T mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) để sung quỹ Nhà nước.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Báo các bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 21/2018/HS-ST ngày 09/11/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 21/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trà Lĩnh (cũ) - Cao Bằng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/11/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về