TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 210/2023/DS-ST NGÀY 14/09/2023 VỀ TRANH CHẤP RANH GIỚI GIỮA CÁC BẤT ĐỘNG SẢN LIỀN KỀ
Trong các ngày 12, 14 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 468/2020/TLST-DS ngày 05 tháng 12 năm 2020 về việc “Tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 644/2023/QĐXX-ST ngày 21 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Võ Thị Phong L, sinh năm 1982.
Đại diện theo ủy quyền: Ông Trịnh Quốc C, sinh năm 1981 (Có mặt).
Cùng địa chỉ: Số B, đường N, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Hoàng N, sinh năm 1980 (Có mặt).
Địa chỉ: Số C, đường H, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.
Địa chỉ liên lạc: Số B, đường N, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Ông Trịnh Quốc C, sinh năm 1981 (Có mặt).
Địa chỉ: Số D, đường N, phường T, quận N, thành phố Cần Thơ.
2/ Bà Phạm Huỳnh T, sinh năm 1984 (Vắng mặt).
Địa chỉ: Số C, đường H, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Trịnh Quốc C trình bày: Bà Võ Thị Phong L được Ủy ban nhân dân thành phố C (cũ) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số V 503823 (Số vào sổ cấp GCN 03860.QSDĐ) ngày 29/7/2002 đối với thửa đất 188, tờ bản đồ số 18, diện tích 132,22m2 (ngang 4m, dài 33,5m), tọa lạc tại đường C, phường H, thành phố Cần Thơ, tỉnh Cần Thơ (nay là số B, đường N, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ). Giáp ranh với phần đất của bà Võ Thị Phong L là thửa đất số 26, tờ bản đồ số 18, diện tích 132,22m2 do Ủy ban nhân dân thành phố C (cũ) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số V 503920 (Số vào sổ cấp GCN 03861 .QSDĐ) cho bà Võ Thị Lan P (chị ruột bà L) cùng ngày 29/7/2002. Trước đây cả hai phần đất đều do bà L quản lý sử dụng, đến năm 2018 bà Võ Thị Lan P chuyển nhượng toàn bộ quyền sử dụng đất nêu trên cho ông Nguyễn Hoàng N được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận N xác nhận chỉnh lý sang tên vào ngày 27/02/2018. Sau khi nhận chuyển nhượng ông Nguyễn Hoàng N đã tiến hành xây dựng công trình lấn sang phần đất của bà L ngang 0,1m, dài 33,5m với tổng diện tích 3,35m2. Đồng thời, phần gác lửng phía trên cũng như phần móng phía dưới đều lấn qua quyền sử dụng đất của nguyên đơn.
Vì vậy, bà Võ Thị Phong L khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bị đơn ông Nguyễn Hoàng N có trách nhiệm tháo dỡ công trình xây dựng trả lại cho nguyên đơn phần đất đã lấn chiếm ngang 0,1m, dài 33,5m với tổng diện tích 3,35m2 và tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng lấn chiếm không gian cũng như phần móng lấn qua phần đất của bà L đã được công nhận theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số V 503823 (số vào sổ 03860.QSDĐ) do Ủy ban nhân dân thành phố C, tỉnh Cần Thơ (cũ) cấp ngày 29/7/2002. Đồng thời, buộc bị đơn ông Nguyễn Hoàng N tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng lấn chiếm phần không gian hẻm công cộng ảnh hưởng đến việc đi lại, sinh hoạt của gia đình nguyên đơn.
* Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án bị đơn ông Nguyễn Hoàng N trình bày: Không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bởi lẽ ông nhận chuyển nhượng nguyên thửa, nguyên trạng quyền sử dụng đất từ bà Võ Thị Lan P với diện tích 132,22m2, thuộc thửa 26, tờ bản đồ số 18 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số V 503920 (Số vào sổ cấp GCN 03861.QSDĐ) do Ủy ban nhân dân thành phố C (cũ) cấp cho bà P ngày 29/7/2002, chỉnh lý sang tên ông và bà Phạm Huỳnh T vào ngày 27/02/2018. Sau khi nhận chuyển nhượng ông đã sử dụng đúng vị trí, diện tích theo ranh giới đã có. Ngoài ra, ông cũng không thống nhất với khởi kiện của nguyên đơn cho rằng công trình xây dựng của ông lấn chiếm phần móng, phần không gian qua phần đất của bà L do phần công trình này ông xây dựng sau, còn phần nhà của nguyên đơn đã được xây dựng trước đó.
Tại phiên tòa, - Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Trịnh Quốc C trình bày: Giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Thị Phong L buộc bị đơn ông Nguyễn Hoàng N tháo dỡ công trình xây dựng trả lại phần đất ranh lấn chiếm ngang 0,1m kéo dài hết đất là 33,5m với tổng diện tích 3,35m2 và tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng lấn chiếm không gian cũng như phần móng lấn qua phần đất của bà L đã được công nhận theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số V 503823 (số vào sổ 03860.QSDĐ) do Ủy ban nhân dân thành phố C, tỉnh Cần Thơ (cũ) cấp ngày 29/7/2002. Đồng thời, buộc bị đơn ông Nguyễn Hoàng N tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng lấn chiếm trên hẻm công cộng do gây ảnh hưởng đến việc đi lại, sinh hoạt của gia đình nguyên đơn.
- Bị đơn ông Nguyễn Hoàng N trình bày: Không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bởi lẽ việc ông xây dựng là đúng theo ranh đất do các bên xác định trước khi nhận chuyển nhượng từ bà Võ Thị Lan P. Hơn nữa, nhà của bà L xây dựng trước, ông xây dựng sau nên cho rằng lấn ranh là không có cơ sở. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:
- Về tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân theo đúng quy định pháp luật; Việc thụ lý vụ án của Tòa án là đúng thẩm quyền, việc xác định tư cách tố tụng là phù hợp. Những người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Hội đồng xét xử thực hiện xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
- Về nội dung: Từ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử:
+ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bị đơn ông Nguyễn Hoàng N tháo dỡ phần móng 1 đã lấn sang thửa đất số 188 của bà Võ Thị Phong L là 4,90cm và phần tường của gác lửng phía trên đã lấn chiếm không gian từ tường T7 là 0,07cm đến tường T9 là 2,67cm.
+ Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn tháo dỡ công trình xây dựng trả lại phần ranh đất ngang 0,1 x dài 33,5m với tổng diện tích 3,35m2.
+ Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện nguyên đơn về việc buộc bị đơn tháo dỡ công trình xây dựng trên phần hẻm công cộng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn bà Võ Thị Phong L khởi kiện yêu cầu buộc bị đơn ông Nguyễn Hoàng N tháo dỡ công trình xây dựng lấn chiếm phần móng, phần tường nhà và phần không gian qua quyền sử dụng đất của nguyên đơn. Quan hệ pháp luật được xác định là “Tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề” thuộc thẩm quyền của thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều theo quy định tại khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ Luật Tố tụng dân sự năm 2015.
[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Phạm Huỳnh T vắng mặt dù đã được đã được tống đạt hợp lệ nhiều lần. Căn cứ theo khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử vẫn tiến hành giải quyết vụ án.
[3] Về nội dung:
[3.1] Từ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như trình bày của các đương sự tại phiên tòa thể hiện vào năm 2002 bà Võ Thị Phong L và bà Võ Thị Lan P (chị em ruột) được cấp 02 phần đất cạnh nhau có cùng diện tích 132,22m2 (ngang 4,0m x dài 33,5m). Sau khi được cấp giấy chứng nhận vào năm 2011 bà L có xây dựng nhà ở (phía trước) và 05 phòng trọ (phía sau) trên phần đất của bà, đồng thời quản lý, sử dụng luôn phần đất của bà P (do đất trống). Đến năm 2018, khi bà Võ Thị Lan P thực hiện thủ tục chuyển nhượng cho ông Nguyễn Hoàng N, bà Phạm Huỳnh T thì bà P với bà L có cấm mốc giới cụ thể. Sau khi nhận chuyển nhượng ông N tiến hành xây dựng công trình tạm để kinh doanh dịch vụ ăn uống, ngăn cách giữa hai phần đất có phần tường và bên trên có phần gác lửng.
[3.2] Bà Võ Thị Phong L khởi kiện cho rằng khi ông Nguyễn Hoàng N xây dựng phần tường đã nhổ bỏ các mốc giới lấn sang đất của bà ngang 0,1 x dài 33,5m với tổng diện tích 3,35m2. Ngược lại, bị đơn ông Nguyễn Hoàng N cho rằng việc xây dựng phần tường là đúng vị trí, diện tích theo ranh giới đã có sẵn do các bên xác định khi ông nhận chuyển nhượng từ bà Võ Thị Lan P.
Hội đồng xét xử nhận thấy, theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ ngày 28/6/2023 thể hiện việc nguyên đơn cho rằng bị đơn lấn chiếm phần đất ngang 0,1 x dài 33,5m là không có cơ sở. Bởi lẽ, tính từ tường ranh do bị đơn xây dựng đo qua phần đất của nguyên đơn thì ngang trước là 4,0m; ngang sau 4,0m; dài 32,17m với tổng diện tích 127,8m2, thiếu 4,42m2. Bị đơn đang sử dụng phần đất ngang trước 4,0m; ngang sau 3,97m; dài 31,88m, tổng diện tích 126,2m2, thiếu 6,02m2. Như vậy, về hình thể thửa đất ngang trước và ngang sau của nguyên đơn đang sử dụng đều là 4,0m phù hợp với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số V 503823 (số vào sổ 03860.QSDĐ) do Ủy ban nhân dân thành phố C, tỉnh Cần Thơ (cũ) cấp ngày 29/7/2002. Trong khi đó bị đơn đang sử dụng phần đất ngang sau chỉ có 3,97m thiếu 0,03m so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên việc nguyên đơn cho rằng bị đơn xây dựng phần tường lấn qua 0,1m là không đúng.
Ngoài ra, tại phiên xem xét thẩm định tại chỗ ngày 28/6/2023 bị đơn ông Nguyễn Hoàng N yêu cầu đo phần ngang sau tính từ trụ mốc giáp với đất của ông Tất Bửu Đ kéo qua đủ 4,0m là vượt qua phần tường ranh do ông xây dựng 0,03m nên có thể khẳng định phần 0,03m đất tranh chấp là của nguyên đơn, bị đơn đã xây dựng phần tường phù hợp với ranh giới giữa hai thửa đất.
[3.3] Đối với yêu cầu khởi kiện yêu cầu buộc bị đơn tháo dỡ phần móng và công trình xây dựng lấn chiếm không gian.
Căn cứ Báo cáo kết quả giám định công trình xây dựng của Công ty cổ phần T1 (BL 99 - 128) thể hiện dựa trên phần tường ranh do ông Nguyễn Hoàng N xây dựng theo chiều thẳng đứng thì phần móng 1 đã lấn sang thửa đất số 188 của bà Võ Thị Phong L là 4,90cm và phần tường của gác lửng phía trên đã lấn chiếm không gian tại tường T7 là 0,07cm và tường T9 là 2,67cm.
Như vậy, việc ông Nguyễn Hoàng N xây dựng phần móng và phần gác lửng lấn chiếm không gian qua quyền sử dụng đất của nguyên đơn là vi phạm khoản 2 Điều 175 Bộ luật Dân sự năm 2015 nên yêu cầu khởi kiện này của bà Võ Thị Phong L là có cơ sở để chấp nhận.
[3.4] Đối với yêu cầu buộc bị đơn ông Nguyễn Hoàng N tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng lấn chiếm trên hẻm công cộng.
Tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cho rằng phần hẻm chung 1,5m đã được các hộ sử dụng ổn định từ năm 1996. Đến năm 2018 sau khi nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất từ bà Võ Thị Lan P thì ông Nguyễn Hoàng N đã tiến hành xây dựng phần lửng phía trên của hẻm công cộng nối liền giữa công trình xây dựng phía trước giáp đường N với phần công trình bên trên phần đất nhận chuyển nhượng. Việc xây dựng công trình phía trên của hẻm công cộng đã ảnh hưởng đến việc đi lại, sinh hoạt của gia đình ông nên yêu cầu buộc tháo dỡ.
Xét phần hẻm là đất công cộng do Nhà nước quản lý nên việc bị đơn ông Nguyễn Hoàng N xây dựng công trình trên phần đất này là vi phạm pháp luật, sẽ bị xử lý theo đúng quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Do đó, yêu cầu buộc bị đơn tháo dỡ công trình xây dựng trên đường đi công cộng là biện pháp khắc phục hậu quả do Cơ quản lý hành chính nhà nước có thẩm quyền áp dụng khi tiến hành xử phạt hành chính. Vì vậy, yêu cầu khởi kiện này của bà Võ Thị Phong L không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, cần phải đình chỉ theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Hơn nữa, theo Công văn số 390/UBND-HC ngày 13/6/2018 của Ủy ban nhân dân phường H có nội dung: “Ngày 08/5/2018, Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận N ban hành Quyết định số 2474/QĐ-XPVPHC, về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với ông Nguyễn Hoàng N. Hình thức xử phạt chỉnh: Phạt tiền 15.000.000 đồng (mười lăm triệu đồng). Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc ông Nguyễn Hoàng N tháo dỡ phần diện tích 110,87m2 xây dựng nằm trong lộ giới đường N, đồng thời lập thủ tục đề nghị cơ quan có thẩm quyền cấp phép xây dựng đối với phần diện tích 154,23m2 trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày lập biên bản”. Như vậy, yêu cầu của nguyên đơn đã được giải quyết, nguyên đơn có quyền liên hệ đến Ủy ban nhân dân quận N để yêu cầu buộc tháo dỡ công trình xây dựng vi phạm của ông Nguyễn Hoàng N theo đúng quy định của pháp luật.
[4] Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và giám định:
- Theo quy định tại khoản 1 Điều 157 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 do yêu cầu khởi kiện tranh chấp phần ranh đất không được chấp nhận nên nguyên đơn phải chịu toàn bộ chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng).
- Đối với yêu cầu buộc bị đơn tháo dỡ phần móng cũng như phần công trình xây dựng lấn chiếm không gian được Tòa án chấp nhận nên bị đơn phải chịu toàn bộ chi phí giám định theo quy định tại khoản 2 Điều 161 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Do nguyên đơn đã nộp tạm ứng và chi xong nên bị đơn ông Nguyễn Hoàng N có nghĩa vụ trả lại số tiền 90.000.000 đồng (Chín mươi triệu đồng) cho bà Võ Thị Phong L.
[5] Án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 4 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu không được Tòa án chấp nhận. Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu của nguyên đơn đối với bị đơn được Tòa án chấp nhận.
[6] Đối với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:
+ Việc tuân thủ theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa cũng như đương sự là phù hợp với quy định của pháp luật.
+ Nội dung giải quyết vụ án: Với những phân tích nêu trên về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn nên đề nghị của Kiểm sát viên về nội dung này là phù hợp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 157, khoản 2 Điều 161, điểm g khoản 1 Điều 217, Điều 227, Điều 228, Điều 244 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Khoản 2 Điều 164, khoản 2 Điều 175 Bộ luật Dân sự năm 2015;
- Khoản 1 Điều 26, khoản 5, 7 Điều 166, Điều 202 Luật Đất đai năm 2013;
- Khoản 4 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Thị Phong L.
Buộc bị đơn ông Nguyễn Hoàng N tháo dỡ phần móng 1 đã lấn sang thửa đất số 188 của bà Võ Thị Phong L là 4,90cm và phần tường của gác lửng phía trên đã lấn chiếm không gian từ tường T7 là 0,07cm đến tường T9 là 2,67cm.
(Đính kèm Bản vẽ hiện trạng ranh đất, hiện trạng móng và hiện trạng tường của Công ty Cổ phần T1).
2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Võ Thị Phong L về việc buộc bị đơn ông Nguyễn Hoàng N tháo dỡ công trình xây dựng trả lại phần ranh đất ngang 0,1 x dài 33,5m với tổng diện tích 3,35m2.
3. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị Phong L về việc buộc bị đơn ông Nguyễn Hoàng N tháo dỡ công trình xây dựng trên phần hẻm công cộng.
4. Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và giám định:
- Nguyên đơn bà Võ Thị Phong L phải chịu 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng) chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, đã nộp tạm ứng và chi xong nên không phải nộp thêm.
- Bị đơn phải chịu 90.000.000 đồng (Chín mươi triệu đồng) chi phí giám định, do nguyên đơn đã nộp tạm ứng và chi xong nên ông Nguyễn Hoàng N có nghĩa vụ trả lại số tiền này cho bà Võ Thị Phong L.
5. Án phí dân sự sơ thẩm:
- Nguyên đơn bà Võ Thị Phong L phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo các Biên lai thu số 003371 ngày 02/12/2020; Biên lai thu số 0000548 ngày 13/5/2022, được nhận lại 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ninh Kiều.
- Bị đơn ông Nguyễn Hoàng N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).
6. Quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo kề từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết), để yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Cần Thơ giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 210/2023/DS-ST về tranh chấp ranh giới giữa các bất động sản liền kề
Số hiệu: | 210/2023/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 14/09/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về