Bản án 20/2024/DS-ST về tranh chấp tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 20/2024/DS-ST NGÀY 26/02/2024 VỀ TRANH CHẤP TÍN DỤNG

Trong ngày 26 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 397/2023/TLST-DS ngày 05 tháng 12 năm 2023, về tranh chấp: “Hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2024/QĐST-DS ngày 16 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP V. Trụ sở: H L, phường L, quận Đ, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật ông Ngô Chí D, chức vụ: Chủ tịch hội đồng quản trị. Ủy quyền cho ông Đỗ Thành T, chức vụ phó giám đốc trung tâm xử lý nợ pháp lý. Địa chỉ liên hệ: Tầng A, số I C, phường D, quận C, Tp Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo ủy quyền ông Lê Thanh N, ông Nguyễn Tấn S, chức vụ chuyên viên xử lý nợ (văn bản ủy quyền ngày 21/02/2024); Địa chỉ liên hệ: Tầng B, số B - B T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang.

2. Bị đơn:

2.1. Ông Nguyễn Minh H, sinh năm 1987; địa chỉ: ấp M, xã M, huyện C, tỉnh An Giang; vắng mặt.

2.2. Bà Lý Ngọc Xuân K, sinh năm 1988; địa chỉ: ấp M, thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bảng tự khai và biên bản hòa giải đại diện Ngân hàng TMCP V trình bày: Ông Nguyễn Minh H và bà Lý Ngọc Xuân K có vay vốn tại ngân hàng TMCP V theo hợp đồng tín dụng như sau:

Hợp đồng số LN1805290710688 ngày 01/6/2018 vay số tiền 290.000.000 thời hạn vay từ 01/6/2018 đến 01/6/2024 lãi suất thả nổi, mục đích vay mua ô tô. Sau khi vay có trả vốn và lãi còn nợ tiền vốn tính đến ngày 21/6/2023 là 229.580.000đ nợ lãi trong hạn là 117.386.805đ, lãi quá hạn 58.693.402.

Hợp đồng số LD1718500837 ngày 4/7/2017 vay 60.000.000 thời hạn vay 60 tháng lãi suất thỏa thuận, thời gian vay từ ngày 04/7/2017 đến 4/7/2022. Sau khi vay có trả vốn và lãi còn nợ tiền vốn tính đến ngày 21/6/2023 là 18.501.556đ nợ lãi trong hạn là 13.739.615đ, lãi quá hạn 6.869.808đ.

Hợp đồng số LD1624400525 ngày 31/8/2016 vay 99.000.000 thời hạn vay 60 tháng lãi suất thỏa thuận, thời gian vay từ ngày 31/8/2016 đến 31/8/2021. Sau khi vay có trả vốn và lãi còn nợ tiền vốn tính đến ngày 21/6/2023 là 51.307.326đ nợ lãi trong hạn là 42.876.081đ, lãi quá hạn 21.438.041đ.

Ngoài ra ông Nguyễn Minh H còn làm giấy đề nghị kiêm hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ tín dụng quốc tế không có tài sản bảo đảm số 325-P-6531311 ngày 01/9/2016 vay số tiền 50.000.000đồng. Trong quá trình sử dụng ông Nguyễn Minh H không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ hiện còn nợ tiền vốn tính đến ngày 21/6/2023 là 49.985.600đ nợ lãi trong hạn là 66.159.607đ, lãi quá hạn 33.079.804đ.

Nay yêu cầu ông Nguyễn Minh H và bà Lý Ngọc Xuân K trả cho ngân hàng số tiền nợ tạm tính đến ngày 20/11/2023 là 802.805.924 đồng. Trong đó nợ gốc và lãi theo từng hợp đồng:

Hợp đồng vay LD1815200423 ngày vay 01/6/2018 nợ gốc 229.580.000đồng, nợ lãi 204.065.053 đồng, tổng cộng: 433.654.053đồng.

Hợp đồng vay LD1718500837 ngày vay 04/7/2017 nợ gốc 18.501.556 đồng, nợ lãi 68.665.981 đong, tổng cộng: 87.167.537đồng.

Hợp đồng vay LD1624400525 ngày vay 31/8/2016 nợ gốc 51.307.326 đồng, nợ lãi 70.102.268 đồng, tổng cộng: 121.409.594 đồng.

Hợp đồng tín dụng số 325-P-6231311 ngày vay 01/9/2016 nợ gốc 49.985.600đồng, nợ lãi 110.598.139 đồng, tổng cộng: 160.583.739đồng.

Kể từ ngày 21/11/2023 ông H, bà K phải tiếp tục chịu lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng đã ký cho đến khi thanh toán xong toàn bộ nợ vay.

Tnrờng họp H, bà K không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán khoản nợ nêu trên và lãi phát sinh thì ngân hàng TMCP V có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền phát mãi tài sản thế chấp để thu hồi nợ.

Bị đơn ông Nguyễn Minh H, bà Lý Ngọc Xuân K đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Mới phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng với quy định của pháp luật. Ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Nguyễn Minh H và bà Lý Ngọc Xuân K có vay vốn tại ngân hàng TMCP V theo các hợp đồng tín dụng: Hợp đồng số LN1805290710688 ngày 01/6/2018 vay số tiền 290.000.000;

Tài sản thế chấp theo Hợp đồng thế chấp xe ô tô biển số LN1805290701688 ngày 01/6/2018 được Trung tâm đăng ý giao dịch bảo đảm tài sản tai thành phố Hồ Chí Minh chứng nhận ngày 01/6/2018. Trong quá trình vay vốn, mặc dù phía Ngân hàng có nhắc nhở nhiều lần nhưng ông H bà K vẫn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ.

Ông Nguyễn Minh H còn làm giấy đề nghị kiêm hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ tín dụng quốc tế không có tài sản bảo đảm số 325-P-6531311 ngày 01/9/2016 vay số tiền 50.000.000 đồng bà K ký tên là người mở thẻ phụ.

Ngoài ra ông H còn ký vay 02 khoản: theo hợp đồng số LD1718500837 ngày 4/7/2017 vay 60.000.000 và hợp đồng số LD1624400525 ngày 31/8/2016 vay 99.000.000;

Căn cứ quy định tại các Điều 323, 463, 466, 468 Bộ luật Dân sự, Điều 27, 37 Luật Hôn nhân và gia đình; các Điều 91, 95 Luật Các tổ chức tín dụng, Điều 49 Nghị định 21/2021/NĐ-CP ngày 19/3/2021 của Chính phủ quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, đề xuất:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ngân hàng TMCP V.

Buộc ông H bà K có nghĩa vụ liên đới trả cho ngân hàng TMCP V số tiền vốn 229.580.000đ; lãi tính đến ngày 26/02/2024 lãi trong hạn là 145.355.388đ, lãi quá hạn 72.677.694đ và chịu lãi phát sinh kể từ ngày 27/02/2024 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ.

Tiếp tục duy trì hợp đồng thế chấp ngày 01/6/2018 để đảm bảo thi hành án.

Buộc ông H bà K có nghĩa vụ liên đới trả cho ngân hàng TMCP V số tiền vốn 49.985.600đ; lãi tính đến ngày 26/02/2024 lãi trong hạn là 78.614.353đ, lãi quá hạn 39.307.176đ và chịu lãi phát sinh kể từ ngày 27/02/2024 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ.

Buộc ông H có nghĩa vụ trả cho ngân hàng TMCP V 02 khoản vay có số tiền vốn 18.501.556đ; lãi tính đến ngày 26/02/2024 lãi trong hạn là 46.774.555đ, lãi quá hạn 23.387.277đ; số tiền vốn 51.307.326đ; lãi tính đến ngày 26/02/2024 lãi trong hạn là 49.723.782.đ, lãi quá hạn 24.861.891đ và chịu lãi phát sinh kể từ ngày 27/02/2024 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ngân hàng TMCP V yêu cầu bà K liên đới cùng ông H trả 02 khoản vay gồm có số tiền vốn 18.501.556đ; lãi tính đến ngày 26/02/2024 lãi trong hạn là 46.774.555đ, lãi quá hạn 23.387.277đ; số tiền vốn 51.307.326đ; lãi tính đến ngày 26/02/2024 lãi trong hạn là 49.723.782.đ, lãi quá hạn 24.861.891đ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Ngân hàng TMCP V khởi kiện bị đơn cư trú tại thị trấn M, huyện C, tỉnh An Giang; Nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang thụ lý giải quyết là đúng theo quy định tại các Điều 26, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt. Cho nên, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1]. Hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng TMCP V với ông Nguyễn Minh H và bà Lý Ngọc Xuân K được xác lập trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận với nhau, được thể hiện bằng: Hợp đồng số LN1805290710688 ngày 01/6/2018 vay số tiền 290.000.000 và giấy đề nghị kiêm hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ tín dụng quốc tế không có tài sản bảo đảm số 325-P-6531311 ngày 01/9/2016 vay số tiền 50.000.000 đồng.

[2.2]. Ngoài ra ông Nguyễn Minh H còn ký hợp đồng mở thẻ tín dụng số LD1718500837 ngày 4/7/2017 vay 60.000.000 đồng và hợp đồng số LD1624400525 ngày 31/8/2016 vay 99.000.000 đồng.

[2.3] Căn cứ các chứng cứ do nguyên đơn cung cấp là hợp đồng số LN1805290710688 ngày 01/6/2018; hợp đồng số 325-P-6531311 ngày 01/9/2016; hợp đồng số LD1718500837 ngày 4/7/2017 và hợp đồng số LD1624400525 ngày 31/8/2016. Tuy nhiên cho đến hôm nay ông H bà K không có ý kiến gì đối với các chứng cứ do nguyên đơn cung cấp. Do đó theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự thì chứng cứ do nguyên đơn cung cấp có giá trị pháp lý.

[2.4]. Về hình thức và nội dung hợp đồng phù hợp với quy định tại Điều 463 Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng nên phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên theo hợp đồng. Về thực hiện hợp đồng, sau khi vay bị đơn có trả vốn và lãi còn nợ tiền vốn và lãi tính đến ngày 26/02/2024 như sau:

Hợp đồng LD1815200423 ngày vay 01/6/2018 nợ gốc 229.580.000đồng, nợ lãi trong hạn 145.355.388 đồng, lãi quá hạn 72.677.694 đồng; tổng cộng: 447.613.083 đồng.

Hợp đồng LD1718500837 ngày vay 04/7/2017 nợ gốc 18.501.556 đồng, nợ lãi trong hạn 46.774.555 đồng, lãi quá hạn 23.387.277 đồng; tổng cộng: 88.663.388 đồng.

Hợp đồng LD1624400525 ngày vay 31/8/2016 nợ gốc 51.307.326 đồng, nợ lãi trong hạn 49.723.782 đồng, lãi quá hạn 24.861.891 đồng; tổng cộng: 125.893.000 đồng.

Hợp đồng tín dụng số 325-P-6231311 ngày vay 01/9/2016 nợ gốc 49.985.600 đồng, nợ lãi trong hạn 78.614.353 đồng, lãi quá hạn 39.307.176 đồng; tổng cộng: 167.907.129 đồng.

[2.5]. Do bị đơn vị phạm nghĩa vụ trả nợ nên Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bị đơn trả nợ là phù hợp quy định tại các Điều 466, 470 Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên đối với hợp đồng số LN1805290710688 ngày 01/6/2018 vay số tiền 290.000.000 và giấy đề nghị kiêm hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ tín dụng quốc tế không có tài sản bảo đảm số 325-P-6531311 ngày 01/9/2016 vay số tiền 50.000.000 đồng là do ông Nguyễn Minh H và bà Lý Ngọc Xuân K ký vay nên phải có trách nhiệm liên đới trả nợ theo 02 hợp đồng trên.

Đối với hợp đồng số LD1718500837 ngày 4/7/2017 vay 60.000.000, hợp đồng số LD1624400525 ngày 31/8/2016 vay 99.000.000 là do một mình ông H ký kết với nguyên đơn để vay sử dụng hình thức thẻ tín dụng tiêu dùng cá nhân, bà K không ký tên đối với 02 khoản vay này, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn cũng không xuất trình chứng cứ chứng minh bà K biết và cũng xác lập hợp đồng cùng với ông H. Vì vậy việc ngân hàng TMCP V yêu cầu bà Lý Ngọc Xuân K có nghĩa vụ liên đới cùng với ông H trả khoản nợ nêu trên là không có cơ sở chấp nhận.

[2.6]. Đối với hợp đồng thế chấp xe ô tô số LN1805290701688/AGG/HDTC ngày 01/6/2018, tài sản thế chấp là xe ô tô nhãn hiệu THACO, số loại tải thùng trong tải 2300kg, số khung RNHA500BKHC061934, số máy JT732529, biển số 67C-094.17 do ông Nguyễn Minh H đứng tên, được Trung tâm đăng ý giao dịch bảo đảm tài sản tài thành phố Hồ Chí Minh chứng nhận ngày 01/6/2018. Xét thấy, hợp đồng thế chấp được ký kết giữa các bên nhằm đảm bảo nghĩa vụ thanh toán nợ của ông T1, bà K với nguyên đơn. Hợp đồng này ký kết trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận giữa các bên và được chứng thực và được đăng ký thế chấp theo quy định pháp luật nên Hợp đồng thế chấp có giá trị pháp lý và hiệu lực thi hành. Do đó, khi ông H bà K không thanh toán nợ cho nguyên đơn thì nguyên đơn có quyền yêu cầu cơ quan Thi hành án phát mãi tài sản thế chấp trên để thu hồi nợ là phù hợp.

[3] Về án phí: Bị đơn phải chịu là theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 463, 466, 470 Bộ luật dân sự năm 2015; các Điều 91, 95 Luật các tổ chức tín dụng; các Điều 147, 273, Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng V.

Buộc ông Nguyễn Minh H và bà Lý Ngọc Xuân K có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần V tiền vốn là 229.000.000đ; tiền lãi trong hạn 145.355.388 đồng, tiền lãi quá hạn 72.677.694 đồng; tổng cộng: 447.613.083 đồng theo hợp đồng LD1815200423 ngày 01/6/2018.

Buộc ông Nguyễn Minh H và bà Lý Ngọc Xuân K có nghĩa vụ liên đới trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần V tiền vốn 49.985.600đồng, tiền lãi trong hạn 78.614.353 đồng, tiền lãi quá hạn 39.307.176 đồng; tổng cộng: 167.907.129 đồng theo hợp đồng tín dụng số 325-P-6231311 ngày vay 01/9/2016.

Buộc ông Nguyễn Minh H có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần V tiền vốn 18.501.556 đồng, tiền lãi trong hạn 46.774.555 đồng, tiền lãi quá hạn 23.387.277 đồng; tổng cộng: 88.663.388 đồng theo hợp đồng LD1718500837 ngày 04/7/2017.

Buộc ông Nguyễn Minh H có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần V tiền vốn 51.307.326 đồng, tiền lãi trong hạn 49.723.782 đồng, tiền lãi quá hạn 24.861.891 đồng; tổng cộng: 125.893.000 đồng theo hợp đồng LD1624400525 ngày 31/8/2016.

Kể từ ngày 27/02/2024 ông Nguyễn Minh H, bà Lý Ngọc Xuân K còn phải chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong Hợp đồng tín dụng số LD1815200423 ngày 01/6/2018; hợp đồng LD1718500837 ngày 04/7/2017; hợp đồng LD1624400525 ngày 31/8/2016 và hợp đồng tín dụng số 325-P-6231311 ngày 01/9/2016 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc.

Trường hợp ông Nguyễn Minh H và bà Lý Ngọc Xuân K không trả được nợ, hoặc trả nợ chưa đầy đủ thì Ngân hàng TMCP V đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý tài sản thế chấp theo hợp đồng thế chấp xe ô tô số LN1805290701688/AGG/HĐTC ngày 01/6/2018, tài sản thế chấp là xe ô tô nhãn hiệu THACO, số loại tải thùng trong tải 2300kg, số khung RNHA500BKHC061934, số máy JT732529, biển số 67C-094.17 do ông Nguyễn Minh H đứng tên, được Trung tâm đăng ký giao dịch bảo đảm tài sản tài thành phố Hồ Chí Minh chứng nhận ngày 01/6/2018 Án phí DSST:

Ông Nguyễn Minh H và bà Lý Ngọc Xuân K phải chịu là 28.620.800 đồng.

Ông Nguyễn Minh H phải chịu là 10.727.800 đồng.

Hoàn trả số tiền 18.085.000 đồng tiền tạm ứng án phí cho ngân hàng TMCP V theo biên lai số 0014743 ngày 05/12/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, Ngân hàng Thương mại cổ phần V có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Riêng bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, được tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

57
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 20/2024/DS-ST về tranh chấp tín dụng

Số hiệu:20/2024/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 26/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;