Bản án 193/2021/HS-ST ngày 29/06/2021 về tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

 BẢN ÁN 193/2021/HS-ST NGÀY 29/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ, MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:176/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 189/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Trọng Th, sinh năm 1991 tại tỉnh Bắc Ninh; thường trú: Không có; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Trọng C, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1962; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Thúy Ph, sinh năm 1992, có 02 con ruột, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 05/01/2021 cho đến nay, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2. Ngụy Tôn T, sinh năm 1995 tại tỉnh Bắc Giang; thường trú: Thôn B A, xã T M, huyện Y D, tỉnh Bắc Giang; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn:

9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Ngụy Tôn T, sinh năm 1974 và bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1976; có 01 em ruột, sinh năm 1997; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân:

- Ngày 23/01/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Y D, tỉnh Bắc Giang xử phạt 06 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, theo Bản án hình sự sơ thẩm số:11/2014/HSST, chấp hành xong hình phạt tù này 10/4/2014.

- Ngày 30/9/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Y D, tỉnh Bắc Giang xử phạt 12 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, theo Bản án hình sự sơ thẩm số:75/2014/HSST, chấp hành xong hình phạt tù này 06/7/2015.

- Ngày 24/11/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Y D, tỉnh Bắc Giang xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, theo Bản án hình sự sơ thẩm số: 95/2015/HSST, chấp hành xong hình phạt tù này 19/12/2017.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 05/01/2021 cho đến nay, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

3. Phạm Thế Nh, sinh năm 1991 tại thành phố Hải Phòng; thường trú: Thôn X Đ, xã Đ B, huyện A D, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Phạm Thế T, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị Qu, sinh năm 1969; bị cáo có vợ tên Hoàng Thị Uy, sinh năm 1969, có 01 con ruột, sinh năm 2015; tiền sự: Không; tiền án: Ngày 08/3/2018, bị Tòa án nhân dân thị xã D A (nay là thành phố D A), tỉnh Bình Dương xử phạt 02 năm tù về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy, theo Bản án hình sự sơ thẩm số: 51/2018/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/5/2019; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 05/01/2021 cho đến nay, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

4. Vay Thị Lệ H (tên gọi khác: Th), sinh năm 1982 tại tỉnh Đồng Nai; thường trú: Số 91/21 khu phố B, phường T Ph, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Lượm ve chai; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Nùng; tôn giáo: Không; con ông Vay Văn H, sinh năm 1960 (đã chết) và bà Trương Thị T, sinh năm 1963 (đã chết); có 03 em ruột, lớn nhất sinh năm 1985, nhỏ nhất sinh năm 2002; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 10/6/2013, bị Tòa án nhân dân huyện B C (nay là thị xã B Ca), tỉnh Bình Dương xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo Bản án hình sự sơ thẩm số:

102/2013/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 07/3/2015; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 05/01/2021 cho đến nay, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

5. Nguyễn Văn C, sinh năm 1965 tại tỉnh Đồng Nai; thường trú: Ấp T, xã X Tr, huyện X L, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Chạy xe mô tô chở khách; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn Đ (đã chết) và bà Nguyễn Thị Ph (đã chết); có 01 chị ruột, sinh năm 1956; bị cáo có vợ tên Huỳnh Thị Thu H, sinh năm 1972, có 01 con ruột, sinh năm 1997; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 05/01/2021 cho đến nay, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Nguyễn Thị Kim Ng, sinh năm 1978; thường trú: Ấp N Th, xã Th A H, huyện K S, tỉnh Sóc Trăng; vắng mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Bảo Tr; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 05/01/2021, Nguyễn Trọng Th và Ngụy Tôn T đi đến phòng trọ của Vay Thị Lệ H và Phạm Thế Nh, tại nhà trọ số MB, khu phố B Đ 4, phường A B, thành phố D A, tỉnh Bình Dương chơi. Tại đây Th rủ H, Nh, T và Nguyễn Văn C góp tiền mỗi người 100.000 đồng để mua ma túy về sử dụng thì tất cả đồng ý. Do T không có tiền nên Th cho T mượn 100.000 đồng, C và Nh không có tiền thì H cho C và Nh mượn mỗi người số tiền 100.000 đồng, tổng số tiền góp được để mua ma túy là 500.000đồng. Sau khi góp tiền, Th cầm tiền đến khu vực đường Ph V Tr, quận G V, Thành phố Hồ Chí Minh, gặp một người đàn ông tên Th (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 01 gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng (ma túy đá) và 01 ống thủy tinh với số tiền 500.000 đồng. Th cất giấu ma túy vào túi quần rồi đón xe về phòng trọ của H và Nh. Tại phòng trọ Th và Nh làm bộ sử dụng ma túy, Th lấy ma túy ra một ít bỏ vào nỏ thủy tinh, số còn lại Th lấy bật lửa hàn lại và cất vào túi quần, rồi Th, Nh, C và T đốt ma túy lên sử dụng còn H lúc này đang nằm ngủ. Đến 14 giờ 40 phút cùng ngày, Đội Cảnh sát tội phạm về kinh tế - ma túy, Công an thành phố D A phối hợp Công an phường A B tiến hành kiểm tra hành chính nhà trọ số MB, khu phố B Đ 4, phường A B, thành phố D A, tỉnh Bình Dương, qua kiểm tra phát hiện phòng cuối của dãy nhà trọ có Nguyễn Trọng Th, Ngụy Tôn T, Phạm Thế Nh, Nguyễn Văn C và Vay Thị Lệ H có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy đồng thời phát hiện trong túi quần phía trước bên trái của Thành có 01 gói nilon hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng nên lực lượng Công an tiến hành lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang cùng vật chứng.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) gói nilon hàn kín bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng, 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm, 01 nỏ thủy tinh, 01 chai nhựa, 01 ống hút nhựa và 01 (một) bình khò.

Quá điều tra còn xác định được Nguyễn Trọng Th và Ngụy Tôn T ngoài hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, Th và T còn có hành vi mua bán trái phép chất ma túy cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Vào khoảng cuối tháng 12/2020, Nh điện thoại cho Th hỏi mua 200.000 đồng tiền ma túy đá thì Th đồng ý, sau đó Thành đem ma túy đến phòng trọ giao cho H và Nh.

Lần thứ hai: Khoảng 22 giờ ngày 04/01/2021, Nh điện thoại cho Th hỏi mua thiếu 200.000 đồng ma túy đá Th đồng ý, Th kêu T đem ma túy đến phòng trọ giao cho H và Nh, đến 12 giờ ngày 05/01/2021, Th đến phòng trọ của H và Nh thì H lấy 200.000 đồng tiền thiếu ma túy mua ngày 04/01/2021 trả cho Th.

Căn cứ Kết luận giám định số: 01/MT-PC09 ngày 12/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng, trong một bì thư được niêm phong thu giữ của Nguyễn Trọng Th cùng đồng phạm gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng là 0,3161 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì các Kết luận giám định số: 01/MT-PC09 ngày 12/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương.

Đối với người đàn ông tên Thảo bán ma túy cho Nguyễn Trọng Th, hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương tiếp tục điều tra xác minh xử lý sau.

Cáo trạng số: 201/CT-VKS ngày 27 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Trọng Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 và tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; truy tố bị cáo Ngụy Tôn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 và tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; các bị cáo Phạm Thế Nh, Vay Thị Lệ H và Nguyễn Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251 và điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng Th từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và xử phạt từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 10 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đồng thời áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, tổng hợp hình phạt của 02 tội danh từ 08 năm 06 tháng tháng đến 10 năm 04 tháng tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 251 và điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Ngụy Tôn T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và xử phạt từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 10 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đồng thời áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, tổng hợp hình phạt của 02 tội danh từ 03 năm 06 tháng tháng đến 04 năm 10 tháng tù.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Phạm Thế Nh từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 10 tháng tù.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Vay Thị Lệ H từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 10 tháng và xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

* Về xử lý vật chứng: Đối với 01 (một) bị thư niêm phong có ghi số vụ 01/MT-PC09 bên trong có chứa ma túy, có khối lượng là 0,1283 gam loại Methamphetamine, mẫu vật được hoàn lại sau giám định; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm, 01 nỏ thủy tinh, 01 chai nhựa, 01 ống hút nhựa và 01 (một) bình khò, là vật cấm lưu thông, tang vật của vụ án nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Do các bị cáo có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên không có ý kiến tranh luận với Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt và xử lý vật chứng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ vào lời khai của các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng và những chứng cứ, tài liệu được thu thập có trong hồ sơ vụ án, xác định: Khoảng 14 giờ 40 phút ngày 05/01/2021, tại trọ số MB, khu phố B Đ 4, phường A B, thành phố D A, tỉnh Bình Dương. Công an phường A B kết hợp với Đội Cảnh sát tội phạm về kinh tế - ma túy, Công an thành phố Dĩ An kiểm tra phát hiện Nguyễn Trọng Th, Ngụy Tôn T, Phạm Thế Nh, Nguyễn Văn C và Vay Thị Lệ H đang sử dụng ma túy, nguồn gốc ma túy là mỗi người góp 100.000 đồng để mua ma túy về sử dụng, ma túy thu giữ của Th, Nh, H, T và C có khối lượng 0,3161gam loại Methamphetamine. Ngoài ra, Th bán ma túy cho Nh và H 02 lần mỗi lần 200.000đồng, trong đó Th kêu T đi giao ma túy giùm cho H và Nh 01 lần.

[3] Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo Nguyễn Trọng Th bán 02 lần ma túy cho Phạm Thế Nh và Vay Thị Lệ H, trong đó bị cáo Ngụy Tôn T giúp bị cáo Th bán ma túy cho bị cáo Nh và H 01 lần, đồng thời các bị cáo Nguyễn Trọng Th, Ngụy Tôn T, Phạm Thế Nh, Nguyễn Văn C và Vay Thị Lệ H tàng trữ ma túy có khối lượng 0,3161gam loại Methamphetamine, mục đích để có ma túy sử dụng và thu lợi đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ tái phép chất ma túy. Do đó, Cáo trạng số: 201/CT-VKS ngày 27 tháng 5 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Nguyễn Trọng Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 và tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; truy tố bị cáo Ngụy Tôn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 và tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; các bị cáo Phạm Thế Nh, Vay Thị Lệ H và Nguyễn Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; các bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là nghiêm trọng và rất nghiêm trọng, đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý, gây tác hại cho xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Để có ma túy sử dụng và có tiền mua sử dụng ma túy mà bị cáo đã thực hiện hành vi tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo các bị cáo thành những công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[5] Trong vụ án tàng trữ trái phép chất ma túy và Mua bán trái phép chất ma túy tính chất đồng phạm nhưng chỉ là đồng phạm giản đơn nên không xác định là tội phạm có tổ chức, cụ thể: Các bị cáo là người góp tiền đi mua ma túy về sử dụng chung, còn bị cáo T là người giúp bị cáo Th mua bán trái phép chất ma túy.

[6] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Phạm Thế Nhật có 01 tiền án về tội Vận chuyển trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích nay tiếp tục phạm tội mới do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[7] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[8] Về nhân thân: Các bị cáo Ngụy Tôn T, Phạm Thế Nh là người có nhân thân xấu đồng thời các bị cáo là người nghiện ma túy, bị cáo H là người không biết chữ nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.

[8] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét bị cáo phạm tội nghiêm trọng và rất nghiêm trọng, đã xâm phạm vào sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma tuý đồng thời các bị cáo là người có nhân thân xấu và người nghiện ma túy, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với các bị cáo, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo các bị cáo thành những công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản” và khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, áp dụng phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục các bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về xử lý vật chứng: Xét 01 (một) bị thư niêm phong có ghi số vụ 01/MT-PC09 bên trong có chứa ma túy, có khối lượng là 0,1283 gam loại Methamphetamine, mẫu vật được hoàn lại sau giám định; 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm, 01 nỏ thủy tinh, 01 chai nhựa, 01 ống hút nhựa và 01 (một) bình khò, là vật cấm lưu thông, tang vật của vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.

[10] Đối với người đàn ông tên Th bán ma túy cho Nguyễn Trọng Th, hiên chưa rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D A, tỉnh Bình Dương tiếp tục điều tra xác minh xử lý sau, là đúng theo quy định của pháp luật.

[11] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo và xử lý vật chứng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Trọng Th và Ngụy Tôn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Mua bán trái phép chất ma túy”. Các bị cáo Phạm Thế Nh, Vay Thị Lệ H và Nguyễn Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1.1 Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng Th 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1.1.1 Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng Th 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1.1.2 Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tổng hợp hình phạt cả 02 tội, buộc bị cáo Nguyễn Trọng Th phải chấp hành hình phạt chung là 08 (tám) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 05/01/2021.

1.2 Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Ngụy Tôn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1.2.1 Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Ngụy Tôn T 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

1.2.2 Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tổng hợp hình phạt cả 02 tội, buộc bị cáo Ngụy Tôn Toản phải chấp hành hình phạt chung là 03 (ba) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 05/01/2021.

1.3 Áp dụng khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Phạm Thế Nh 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 05/01/2021.

1.4 Áp dụng khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Vay Thị Lệ H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 05/01/2021.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 05/01/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bị thư niêm phong có ghi số vụ 01/MT-PC09 bên trong có chứa ma túy, có khối lượng là 0,1283 gam loại Methamphetamine;

01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy gồm, 01 nỏ thủy tinh, 01 chai nhựa, 01 ống hút nhựa và 01 (một) bình khò.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 31/5/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An).

3. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Các bị cáo Nguyễn Trọng Th, Ngụy Tôn T, Phạm Thế Nh, Nguyễn Văn C và Vay Thị Lệ H, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án tống đạt hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 193/2021/HS-ST ngày 29/06/2021 về tội tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:193/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;