Bản án 19/2021/HS-ST ngày 21/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA BỂ, TỈNH BẮC KẠN

 BẢN ÁN 19/2021/HS-ST NGÀY 21/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 22/2021/HSST, ngày 29 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:20/2020/QĐXXST-HS, ngày 07 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

TRIỆU VĂN P (Tên gọi khác: Không) - Sinh ngày 18/8/1977 tại huyện N, tỉnh Cao Bằng. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn B, xã C, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Dao; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Chàn H (đã chết) và bà Lý Mùi P (đã chết); vợ là Triệu Mùi C và 02 con (lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh 2003): tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Bị cáo sinh ra, lớn lên tại huyện N, tỉnh Cao Bằng. Năm 1995 xây dựng gia đình và sinh sống tại xã A, huyện Pác Nặm. Năm 2006 chuyển cả gia đình đến sinh sống tại thôn B, xã C, huyện Ba Bể. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặm cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nông Thị Chiên – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bắc Kạn. Có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Triệu Mùi C, sinh năm 1983. Trú tại: Thôn B, xã C, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Có mặt.

* Người chứng kiến:

- Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1972 Nơi cư trú: Thôn B, xã C, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.

- Anh Mã Văn T, sinh năm 1990 Nơi cư trú: Thôn B, xã C, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.

- Ông Nông Văn T, sinh năm 1981 Nơi cư trú: Thôn N, xã C, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. (Những người chứng kiến đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 08h30’ ngày 29/12/2020 tại thôn B, xã C, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, tổ công tác Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Ba Bể lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Triệu Văn P về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ và niêm phong 05 (năm) gói ma túy heroine vào phong bì ký hiệu A1(Tiến hành cân xác định khối lượng được là 0,18 gam, niêm phong 0,18 gam chất dạng cục, bột màu trắng vào phong bì ký hiệu B1 gửi giám định);

tạm giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO; 01 xe mô tô BKS 97B1-810.60.

Tại cơ quan điều tra, Triệu Văn P khai nhận: Do bản thân sử dụng ma túy, khoảng 19 giờ ngày 28/12/2020, Pham điều khiển xe mô tô BKS 97B1-810.60 đi từ nhà thôn B, xã C, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đến thị trấn C, huyện Ba Bể với mục đích để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đến cầu P thuộc thị trấn C, huyện Ba Bể, P thấy một người đàn ông không rõ danh tính đứng trên cầu có biểu hiện nghiện ma túy nên dừng xe lại hỏi “Có biết tìm mua ma túy ở đâu không”, người đàn ông trả lời “Nếu anh cần mua ma túy thì em đi mua hộ cho”. P đưa cho người đàn ông đó 500.000 đồng, người đàn ông đó đi khoảng 30 phút thì quay lại đưa cho P 01 gói ma túy bên trong có 05 gói nhỏ, mua được ma túy P cất vào trong cốp xe mô tô rồi điều khiển xe đi về nhà và lấy một phần của 01 gói nhỏ trong 5 gói đã mua được ra sử dụng, phần còn lại gói lại cất vào trong cốp xe mô tô BKS 97B1-810.60 cùng 04 gói trước đó. Ngày 29/12/2020 Triệu Văn P đang điều khiển xe mô tô BKS 97B1-810.60 tại thôn B, xã C, huyện Ba Bể thì bị tổ công tác Công an huyện Ba Bể phát hiện, bắt quả tang và thu giữ 05 gói ma túy dạng cục, bột màu trắng có khối lượng 0,18 gam.

Tại Kết luận giám định số: 24/KTHS-MT, ngày 06/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn, kết luận: Mẫu chất dạng cục, bột màu trắng trong phong bì ký hiệu B1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có tổng khối lượng là 0,18 gam (Không phẩy một tám gam).

Tại bản cáo trạng số: 16/CT-VKSBB ngày 27/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn đã truy tố bị cáo Triệu Văn P về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật hình sự;

Điều luật có nội dung:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

a)....

c) Heroine, ........ có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05gam;.............

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.” Tại phiên tòa đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Bể giữ nguyên nội dung truy tố đối với bị cáo Pham. Đề nghị tuyên bố bị cáo Triệu Văn P phạm tội: “Tàng trữ trái phép chấp ma túy”. Áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249; Điều 38;

điểm s, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo P từ 12 đến 15 tháng tù. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Pham.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47/BLHS; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự ; Điều 29, 33, 37 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 244 của Bộ luật dân sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì ký hiệu T24 có đóng dấu niêm phong của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn bên trong có chứa: Mẫu chất trong phong bì niêm phong ký hiệu B1 còn lại là 0,15gam (không phẩy một năm gam) cùng phong bì, bao gói cũ; 01 phong bì ký hiệu B2 bên trong có chứa toàn bộ giấy gói chất ma túy thu được và phong bì niêm phong cũ.

- Trả lại cho Triệu Văn P: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO đã qua sử dụng.

- 01(một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đen trắng, BKS 97B1-810.60, tên chủ xe Triệu Mùi C, xe đã qua sử dụng là tài sản chung của vợ chồng Triệu Văn P và Triệu Mùi C, bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội. Tịch thu 1/2 giá trị của xe mô tô sung quỹ Nhà nước, 1/2 giá trị của xe mô tô còn lại trả lại cho chị Triệu Mùi C.

Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016. Bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo và có đơn xin miễn án phí. Đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo P trình bày bản bào chữa đồng ý với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Bể truy tố và xét xử bị cáo P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1, Điều 249/BLHS là đúng. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51/BLHS. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền và đề nghị xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất theo đề nghị của Viện kiểm sát là 12 tháng tù.

- Bị cáo P thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như Viện kiểm sát truy tố. Đối với xe mô tô BKS 97B1-810.60, bị cáo nhất trí với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là tịch thu 1/2 giá trị của xe mô tô để sung quỹ Nhà nước, 1/2 giá trị của xe mô tô còn lại trả lại cho chị Triệu Mùi C và đề nghị được trả lại cho bị cáo 01 chiếc điện di động nhãn hiệu OPPO đã qua sử dụng. Bị cáo nói lời sau cùng xin được giảm nhẹ hình phạt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Triệu Mùi C nhất trí với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là tịch thu 1/2 giá trị của xe để sung quỹ Nhà nước,1/2 giá trị của xe mô tô còn lại trả lại cho chị Triệu Mùi C.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Pham đều khai nhận: Vào hồi 08h 30’ ngày 29/12/2020 tại thôn B, xã C, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, Triệu Văn P đã có hành vi cất giữ, cất giấu bất hợp pháp 0,18 gam (Không phẩy một tám gam) chất ma túy (loại Heroine). Mục đích Triệu Văn P tàng trữ trái phép chất ma túy là phục vụ cho nhu cầu sử dụng chất ma túy của bản thân, ngoài ra không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ căn cứ xác định việc truy tố, xét xử bị cáo Triệu Văn P về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Xét tính chất hành vi của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về các chất ma túy, làm gia tăng tội phạm, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự địa phương, cần xử lý nghiêm nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[3]. Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo thấy: Bị cáo có nhân thân tốt. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4]. Về nguồn gốc số ma túy, bị cáo P khai mua với một người đàn ông không quen biết tại khu vực cầu P thuộc thị trấn C, huyện Ba Bể vào hồi 19 giờ ngày 28/12/2020, nhưng do P không biết họ, tên, địa chỉ của người đàn ông này nên không có cơ sở để điều tra xác minh.

[5]. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Triệu Mùi C: Quá trình điều tra, xác minh và tại phiên tòa làm rõ chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đen trắng, BKS 97B1-810.60, tên chủ xe Triệu Mùi C do Công an tỉnh Bắc Kạn cấp. Chị C khai nguồn gốc số tiền mua xe là do chị đi xuất khẩu lao động có tiền mua chiếc xe vào năm 2018 và cả gia đình sử dụng chung từ đó đến ngày 29/12/2020. Chị C và Triệu Văn P xác định xe mô tô BKS 97B1-810.60 có được trong thời kỳ hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng. Ngày 28, 29/12/2020, Triệu Văn P sử dụng xe mô tô BKS 97B1-810.60 để đi mua ma túy về sử dụng và tàng trữ trong cốp xe chị C không biết. Như vậy, xét về nguồn gốc, quá trình sử dụng thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX, BKS 97B1-810.60 là tài sản có được trong thời kỳ hôn nhân của Triệu Văn P và Triệu Mùi C, xác định là tài sản chung của vợ chồng. Ngày 28, 29/12/2020, P sử dụng chiếc xe mô tô này làm phương tiện để đi mua và tàng trữ trái phép chất ma túy cần tịch thu, hóa giá sung quỹ Nhà nước 1/2 giá trị của chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đen trắng, BKS 97B1-810.60, tên chủ xe Triệu Mùi C. 1/2 giá trị của xe mô tô còn lại được trả lại cho chị Triệu Mùi C.

[6]. Về vật chứng:

- 01 phong bì ký hiệu T24 có đóng dấu niêm phong của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn bên trong có chứa: Mẫu chất trong phong bì niêm phong ký hiệu B1 còn lại là 0,15gam (không phẩy một năm gam) cùng phong bì, bao gói cũ; 01 phong bì ký hiệu B2 bên trong có chứa toàn bộ giấy gói chất ma túy thu được và phong bì niêm phong cũ – tất cả không có giá trị, tịch thu tiêu hủy.

- Trả lại cho Triệu Văn P: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO đã qua sử dụng.

- 01(một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đen trắng, BKS 97B1-810.60, tên chủ xe Triệu Mùi C, xe đã qua sử dụng là tài sản chung của vợ chồng Triệu Văn P và Triệu Mùi C, bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội. Tịch thu 1/2 giá trị của xe mô tô sung quỹ Nhà nước. 1/2 giá trị của xe mô tô còn lại trả lại cho chị Triệu Mùi C.

[7]. Hình phạt bổ sung: Tài liệu trong hồ sơ vụ án xác định bị cáo không có tài sản đảm bảo cho việc thi hành án, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Pham.

[8]. Về án phí: Căn cứ Điều 12 và 15 - Nghị quyết số:326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo và có đơn xin miễn án phí, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo đủ điều kiện được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố bị cáo Triệu Văn P phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

* Căn cứ điểm c, Khoản 1, Điều 249; Điều 38; điểm s, khoản 1, Điều 51của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Triệu Văn P: 12 (Mười hai) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án, được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 29/12/2020 đến ngày 07/01/2021.

* Về vật chứng: Áp dụng Điều 47/BLHS; Điều 106/BLTTHS; Điều 29, Điều 33, Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 244 của Bộ luật dân sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì ký hiệu T24 có đóng dấu niêm phong của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn bên trong có chứa: Mẫu chất trong phong bì niêm phong ký hiệu B1 còn lại là 0,15gam (không phẩy một năm gam) cùng phong bì, bao gói cũ; 01 phong bì ký hiệu B2 bên trong có chứa toàn bộ giấy gói chất ma túy thu được và phong bì niêm phong cũ.

- Trả lại cho Triệu Văn P: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO đã qua sử dụng.

- Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước 1/2 giá trị 01(một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đen trắng, BKS 97B1-810.60, tên chủ xe Triệu Mùi C, xe đã qua sử dụng, 1/2 giá trị chiếc xe còn lại trả lại cho chị Triệu Mùi Ch.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 29/4/2021 giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ba Bể và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Bể)

* Về án phí: Căn cứ Điều 12, Điều 15 - Nghị quyết số:326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Triệu Văn P.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 19/2021/HS-ST ngày 21/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:19/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Bể - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;