Bản án 19/2019/HNGĐ-ST ngày 27/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN LÃO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 19/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/06/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 47/2019/TLST-HNGĐ, ngày 22 tháng 02 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 605/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 656/2019/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Tuyết N, đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn A, xã TS, huyện AL, thành phố HP; hiện trú tại: Thôn M, xã TH, huyện ĐT, tỉnh TN; vắng mặt tại phiên tòa (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Bùi Văn T, trú tại: Thôn A, xã TS, huyện AL, thành phố HP, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 04 tháng 01 năm 2019, bản tự khai và biên bản lấy lời khai của nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Tuyết N trình bày:

Chị xây dựng hạnh phúc với anh Bùi Văn T do tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 07 tháng 02 năm 2012 tại Ủy ban nhân dân xã Đăk Ha, huyện Đăk GLong, tỉnh Đăk Nông. Sau khi kết hôn anh chị chung sống cùng với bố mẹ anh T tại xã Đăk Ha, huyện Đăk GLong, tỉnh Đăk Nông được khoảng một năm thì chuyển về quê anh T ở thôn Thôn A, xã TS, huyện AL, thành phố HP. Thời gian đầu chung sống tình cảm vợ chồng bình thường, đến năm 2015 thì vợ chồng chị phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do anh T sống không có trách nhiệm với vợ con, anh T tụ tập bạn bè, chơi bời nghiện ma túy, không chịu làm ăn. Chị đã khuyên can, góp ý anh T đánh chửi, xúc phạm chị và cả bố mẹ chị, mâu thuẫn vợ chồng kéo dài. Đến ngày 11 tháng 11 năm 2018 anh T đánh chị không chịu đựng được nên chị đưa hai con chung về nhà bố đẻ ở Thôn M, xã TH, huyện ĐT, tỉnh TN sinh sống. Anh T lên xin lỗi nhưng chị không quay về chung sống với anh T. Chị và anh T đã sống ly thân nhau thời gian dài, hai bên không còn quan tâm đến nhau, tình cảm vợ chồng không còn. Chị làm đơn xin đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Bùi Văn T.

Về con chung: Chị N trình bày chị và anh T có hai con chung là Bùi Ngọc M, sinh ngày 29 tháng 8 năm 2012 và Bùi Gia B, sinh ngày 29 tháng 3 năm 2015. Hiện chị đang nuôi hai con, ly hôn chị đề nghị được nuôi cả hai con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi các con.

Về tài sản chung, công nợ: Chị N trình bày chị tự thỏa thuận với anh T, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Bùi Văn T đã được tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh T không đến tòa để giải quyết việc chị N xin ly hôn anh nên không có lời khai của anh T.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng tại phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tuyết N đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa chị N vắng mặt nhưng chị có đơn đề nghị xét xử vắng mặt chị. Bị đơn anh Bùi Văn T không đến tham gia tố tụng tại tòa án là không tuân thủ các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về đường lối giải quyết vụ án: Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 19, 53, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử, xử cho chị Nguyễn Thị Tuyết N được ly hôn anh Bùi Văn T; về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao hai con Bùi Ngọc M, sinh ngày 29 tháng 8 năm 2012 và Bùi Gia B, sinh ngày 29 tháng 3 năm 2015 cho chị Nguyễn Thị Tuyết N nuôi dưỡng, chị N không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi các con, tạm hoãn việc anh T cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung, công nợ: Chị N không yêu cầu giải quyết đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét; về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, chị Nguyễn Thị Tuyết N phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Tuyết N vắng mặt tại phiên tòa nhưng chị N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt chị. Bị đơn anh Bùi Văn T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị Tuyết N và anh Bùi Văn T.

Về nội dung vụ án:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Tuyết N và anh Bùi Văn T xây dựng hạnh phúc với nhau có đăng ký kết hôn ngày 07 tháng 02 năm 2012 tại Ủy ban nhân dân xã Đăk Ha, huyện Đăk GLong, tỉnh Đăk Nông được xác định là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống anh chị xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Bùi Văn T không tu chí gia đình, anh T chơi bời và tại địa phương thuộc diện nghi nghiện ma túy. Mâu thuẫn của vợ chồng chị N anh T kéo dài, chị N đưa hai con về nhà bố mẹ chị ở Thôn M, xã TH, huyện ĐT, tỉnh TN và sống ly thân với anh T thời gian dài, hai bên không còn quan tâm đến nhau. Xét thấy tình trạng mâu thuẫn giữa chị N và anh T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị N xin ly hôn anh T là có căn cứ phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị N và anh T có hai con chung là Bùi Ngọc M, sinh ngày 29 tháng 8 năm 2012 và Bùi Gia B, sinh ngày 29 tháng 3 năm 2015. Hiện chị N đang nuôi dưỡng, chăm sóc hai con. Ly hôn chị N đề nghị được nuôi cả hai con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay anh T vắng mặt nên không có ý kiến về vấn đề con chung. Xét chị N có việc làm ổn định, có thu nhập và hiện đang ở cùng bố mẹ chị đảm bảo điều kiện nuôi các con. Căn cứ Điều 81của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử giao cho chị Nguyễn Thị Tuyết N nuôi dưỡng hai con chung. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với anh Bùi Văn T.

[5] Về tài sản chung, công nợ: Chị Nguyễn Thị Tuyết N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Tuyết N phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; khoản 4 Điều 147; Điều 235 và Điều 266 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các điều 19, 51, 53, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Chị Nguyễn Thị Tuyết N được ly hôn anh Bùi Văn T.

2. Về con chung: Giao hai con Bùi Ngọc M, sinh ngày 29 tháng 8 năm 2012 và Bùi Gia B, sinh ngày 29 tháng 3 năm 2015 cho chị Nguyễn Thị Tuyết N nuôi dưỡng đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con đối với anh Bùi Văn T.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Tuyết N phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị N đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0017098 ngày 22 tháng 02 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Lão, thành phố Hải Phòng. Chị Nguyễn Thị Tuyết N đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Chị Nguyễn Thị Tuyết N và anh Bùi Văn T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 19/2019/HNGĐ-ST ngày 27/06/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:19/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;