Bản án 191/2017/HSST ngày 27/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 191/2017/HSST NGÀY 27/12/2017 VỀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 12 năm 2017, tại trụ Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý 140/2017/TLST-HS, ngày 10 tháng 10 năm 2017 theo Quyết định  đưa  vụ  án  ra  xét  xử  157/2017/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:

Đ H T (tên gọi khác là C), sinh ngày 21/5/2000, tại B D; địa chỉ thường trú: Tổ 19, ấp T T, xã B Đ, thị xã T U, tỉnh B D; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hoá: Lớp 5/12; con ông Đ V N, sinh năm 1963 (đã chết) và bà N T N P, sinh năm 1967; bị cáo có 02 chị em, chị lớn sinh năm 1991, nhỏ là bị cáo.

Tiền sự:

- Ngày 15/8/2016, bị Công an phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép trang phục, cấp hiệu, phù hiệu theo Quyết định số 120/QĐ-XPVPHC ngày 15/8/2016, bị cáo chưa chấp hành xong việc nộp phạt.

Tiền án: Không. Nhân thân:

- Ngày 27/11/2013, bị Ủy ban nhân dân huyện Tân Uyên (nay là thị xã Tân Uyên) ra Quyết định số 8823/QĐ-UBND về việc xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng đối với Đ H T về hành vi trộm cắp tài sản (4 lần trộm cắp tài sản). Thái chấp hành xong ngày 07/02/2014.

- Ngày 15/8/2017, Đ H T bị Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2017/HSST ngày 15/8/2017. T chấp hành án từ ngày 02/10/2017. ĐH T đang chấp hành án tại Trại giam Long Hoà, thuộc Tổng cục VIII – Bộ Công an (xã Long Hoà, huyện Bến Lức, tỉnh Long An), bị cáo có mặt.

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo: Bà N T N P, sinh năm 1967; địa chỉ: Tổ 19, ấp T T, xã B Đ, thị xã T U, tỉnh B D, có mặt.

- Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Ông N T T, sinh năm 1981; Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Bình Dương, có mặt.

Người bị hại:

- Cháu P V N, sinh ngày 17/4/2002; địa chỉ: Ấp 3, xã H N, thị xã T U, tỉnh B D, vắng mặt.

Người đại diện hợp pháp của người bị hại của cháu P V N: Bà B T L (mẹ của N), sinh năm 1971; địa chỉ: Ấp 3, xã H N, thị xã T U, tỉnh B D, vắng mặt;

- Ông Đ T S, sinh năm 1986; địa chỉ: Tổ 5, khu phố L B, phường K B, thị xã T U, tỉnh B D, vắng mặt;

- Ông N H N, sinh ngày 01/6/1999; địa chỉ: Số nhà 143/3B, tổ 5, khu phố B K, phường K B, thị xã T U, tỉnh B D, vắng mặt;

- Bà N T Đ, sinh năm 1941; địa chỉ: Tổ 19, ấp T T, xã B Đ, thị xã T U, tỉnh B D, có mặt.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông T H D, sinh năm 1971; địa chỉ: Khu phố 1, phường P T, thành phố T D M, tỉnh B D, vắng mặt.

- Bà B T L, sinh năm 1971; địa chỉ: Ấp 3, xã H N, thị xã T U, tỉnh B D,

vắng mặt.

4. Người làm chứng:

Ông P V D, sinh năm 1974; địa chỉ: Khu phố T H, phường T H, thị xã T U, tỉnh B D, vắng mặt;

- Ông N V Q, sinh ngày 05/7/1999; địa chỉ: Tổ 5, khu phố B K, phường K B, thị xã T U, tỉnh B D, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đ H T, là đối tượng không nghề nghiệp và thường xuyên chơi game online. Do không có tiền tiêu nên T nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của người khác để sử dụng, chi tiêu. T đã thực hiện các hành vi cụ thể như sau:

1/ Vụ thứ nhất:

Khoảng đầu tháng 8/2016, Đ H T đến tiệm “Net Q” thuộc xã Hội Nghĩa, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương để chơi game. Tại đây, T quen biết P V N là khách đến tiệm Net chơi game, cả hai thường sử dụng máy tính gần nhau trong tiệm Net. Trong thời gian chơi game chung với N, T biết N thường điều khiển xe môtô hiệu Yamaha Sirius biển số 61X2 – 8533 đến tiệm Net chơi game nên nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe này của N để sử dụng. Thực hiện ý định, T nói dối với N tên là “T”, nhà ở Hội Nghĩa, đang làm Công an điều tra tại Công an thị xã Tân Uyên. Sau đó, T lên mạng Internet tìm mua bộ quần áo màu xanh (loại trang phục của lực lượng cảnh sát) rồi mặc đi đến tiệm “Net Q” chơi game cho N nhìn thấy để tin là T làm công an. Ngày 10/8/2016, T đi bộ đến tiệm “Net Q” chơi game và gặp N, T giả vờ nói với N cho T mượn xe môtô biển số 61X2-8533 để đi về nhà lấy tiền rồi lên trả xe cho N. Do tin tưởng T làm công an nên N đồng ý cho T mượn xe môtô biển số 61X2-8533. Sau khi lấy được xe, T điều khiển xe đi Thành phố Hồ Chí Minh chơi đến 01 giờ 30 phút ngày 11/8/2016 thì về nhà ở Bạch Đằng lấy quần áo rồi điều khiển xe môtô biển số 61X2-8533 đi lang thang nhiều nơi ở Bình Dương mà không đem xe về trả như đã hẹn. N bị mất xe nên đã đến Công an xã Hội nghĩa trình báo sự việc.

Khoảng 13 giờ ngày 08/9/2016, T điều khiển chiếc xe môtô biển số61X2-8533 đi lòng vòng các đường hẻm ở khu vực phường Khánh Bình, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tìm nhà có nuôi gà để bắt trộm, bán lấy tiền tiêu xài nên T dựng xe môtô biển số 61X2 – 8533 cách ngôi nhà khoảng 100 mét rồi đi bộ đến ngôi nhà này để kiếm gà bắt trộm. Sau đó, T phát hiện chiếc xe khác không người trong coi và nảy sinh ý định chiếm đoạt nên T bẻ biển số 61X2 – 8533 của xe Yamaha Sirius mang đi rồi bỏ xe lại hiện trường. Người đi đường phát hiện xe mô tô không người trông coi nên trình báo cho Công an. Công an phường Khánh Bình đã tạm giữ xe mô tô và lập hồ sơ ban đầu chuyển cho Cơ quan cảnh sát điều tra thụ lý theo thẩm quyền.

Kết luận số 111/KLTS-TTHS ngày 05/6/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Tân Uyên xác định: 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đen - bạc, biển số 61X2 – 8533 đã qua sử dụng trị giá 10.000.000 đồng. Xe mô tô này do ông T H D đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Xe này ông D đã bán cho bà B Th L nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu theo quy định. Ngày 10/8/2016, bà L cho con ruột là P V N mượn đi đến tiệm “Net Q” để chơi game thì bị T chiếm đoạt. Ngày 08/8/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên ra Quyết định xử lý vật chứng số 134, trả lại xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đen - bạc, biển số 61X2 – 8533 cho bà L ngày 21/8/2017, bà L và ông N đã nhận xe và không có yêu cầu gì khác.

2/ Vụ thứ thứ hai:

Khoảng 13 giờ ngày 08/9/2016, T điều khiển xe môtô biển số 61X2 – 8533 đến đoạn đường giao thông nông thôn thuộc khu phố Khánh Vân, phường Khánh Bình, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương tìm nhà nuôi gà để trộm. Khi đi trên đường, T nhìn thấy 01 ngôi nhà cạnh đường không người trông coi nên T dựng xe môtô biển số 61X2 – 8533 cách ngôi nhà khoảng 100 mét rồi đi bộ đến ngôi nhà này để kiếm gà bắt trộm thì nhìn thấy bên hông nhà có dựng chiếc xe môtô hiệu Yamaha Exciter biển số 61E1 – 349.50 của ông Đ T S, trên ổ khóa xe cắm sẵn chìa khóa nên T nảy sinh ý định trộm xe để sử dụng. T quan sát thấy xung quanh không có người nên T dẫn bộ chiếc xe môtô biển số 61E1-349.50 đi đến vị trí mà T dựng chiếc xe môtô biển số 61X2 – 8533 trước đó. Khi đế nơi, T dùng tay bẻ biển số 61X2 – 8533 của xe Yamaha Sirius kẹp vào ba ga xe môtô hiệu Yamaha Exciter biển số 61E1 – 349.50 rồi điều khiển xe môtô hiệu Yamaha Exciter chạy đi.

Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, T điều khiển xe mô tô biển số 61E1 – 349.50 về nhà T ở Bạch Đằng, giấu xe mô tô tại bụi chuối gần nhà và cất biển số xe mô tô 61X2 – 8533 trong thùng quần áo trong nhà của Thái và đi ngủ.

Do bị mất xe mô tô Yamaha Exciter biển số 61E1 – 349.50 nên ông S đã trình báo Công an phường Khánh Bình, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

Đến ngày 22/9/2016, do hết tiền tiêu xài nên T điều khiển xe môtô biển số61E1 – 349.50 đi lòng vòng trên các tuyến đường thuộc xã Phú An tìm tài sản để trộm thì bị phát hiện và bị Công an xã Phú An, thị xã Bến Cát lập biên bản vụ việc, tạm giữ xe mô tô hiệu Yamaha Exciter biển số 61E1 – 349.50, rồi giao T cùng hồ sơ cho Công an phường Khánh Bình xử lý theo quy định. Công an phường Khánh Bình đã tiến hành lập hồ sơ ban đầu và chuyển giao hồ sơ, vật chứng cùng Đ H T cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên giải quyết theo thẩm quyền.

Kết luận số 91/KLTS-TTHS ngày 27/9/2016 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Tân Uyên xác định: 01 xe mô tô hiệu Yamaha Exciter màu trắng - xanh, biển số 61E1 – 349.50 đã qua sử dụng trị giá 30.250.000 đồng. Xe mô tô này ông Đ T S đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Ngày 13/02/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên ra Quyết định xử lý vật chứng số 33, trả lại xe mô tô hiệu Yamaha Exciter màu trắng - xanh, biển số 61E1 – 349.50 cho ông S, ông S đã nhận xe và không có yêu cầu gì khác.

3/ Vụ thứ ba:

Khoảng giữa tháng 11 năm 2016, Đ H T đến Tiệm Internet số 37 thuộc phường Khánh Bình, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương để chơi game. Tại đây, T quen biết với N H N là khách đến tiệm Net chơi game, cả hai thường sử dụng máy tính gần nhau trong tiệm Net. Trong thời gian chơi game chung với N, T biết được N thường điều khiển xe môtô hiệu Yamaha Sirius biển số 61E1 – 299.55 nên nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe mô tô này để sử dụng. Thực hiện ý định, T lên mạng Internet tìm mua giày, vớ giống loại lực lượng Công an sử dụng và thường xuyên mang giày cùng vớ này để N nhìn thấy. Trong lúc nói chuyện với nhau, N hỏi T làm việc ở đâu thì T đưa ra thông tin giả là T làm việc ở “phòng điều tra Công an thị xã Tân Uyên”, N nghe vậy nên hỏi tiếp: “Tối có đi tuần không”, T trả lời: “Không biết”. Trong thời gian chơi game chung, T thường xuyên nói với N: “Chiều nay tao phải vào cơ quan trực nữa rồi” khi T chuẩn bị đi về, để N tin tưởng là T làm việc ở Công an thị xã Tân Uyên. Khoảng 12 giờ ngày 02/12/2016, T nói với N là “Cho tao mượn xe chạy về nhà ăn cơm, 15 phút sau tao lên lại trả xe cho mày”. Tin tưởng lời nói của T nên N giao xe mô tô biển số 61E1 – 299.55 cho T. Sau khi lấy được xe, T mang xe sử dụng mà không đem trả và không liên lạc với Nghĩa. Do không thấy T mang xe đến trả nên Nghĩa đến Công an phường Khánh Bình trình báo.

Đến khoảng 15 giờ ngày 05/12/2016, T mặc quần áo loại quần áo màu xanh (loại quần áo của ngành công an) điều khiển xe môtô biển số 61E1 – 299.55 của N lưu thông gần Trường Huỳnh Văn Nghệ thuộc phường Uyên Hưng thì bị N V Q là bạn của N nhìn thấy nên gọi điện thoại báo cho N biết. Nghe vậy, N đến khu vực Trường Huỳnh Văn Nghệ thì phát hiện T điều khiển xe mô tô biển số 61E1 – 299.55 nên đuổi theo T từ phường Uyên Hưng đến xã Hóa An, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai thì đuổi kịp T, truy hô và báo Công an xã Hóa An mời T về trụ sở về làm việc. Tại Công an xã Hóa An, T thừa nhận hành vi chiếm đoạt xe mô tô của N nên Công an xã Hóa An bàn giao T cùng xe mô tô biển số 61E1 – 299.55 và 124.000 đồng thu giữ của T cho Công an phường Khánh Bình xử lý theo thẩm quyền.

Công an phường Khánh Bình tạm giữ xe mô tô hiệu Yamaha Sirius biển số 61E1 – 299 cùng 01 quần màu xanh (loại quần của ngành công an) và lập hồ sơ ban đầu chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thị xã Tân Uyên thụ lý theo thẩm quyền.

Kết luận số 153/KLTS-TTHS ngày 19/12/2016 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Tân Uyên xác định: 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ-đen, biển số 60E1 – 299.55 đã qua sử dụng có trị giá 9.000.000 đồng. Xe này của ông P V D đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Tháng 7/2016, ông D bán xe này cho ông N với giá 9.500.000 đồng nhưng chưa làm thủ tục sang tên theo quy định. Ngày 20/4/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên ra Quyết định xử lý vật chứng số 42, trả lại xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu xanh, biển số 60E1 – 299.55 cùng Giấy chứng nhận đăng ký xe cho ông Nghĩa vào ngày 24/4/2017, ông N không có yêu cầu gì khác.

4/ Vụ thứ tư:

Đ H T là cháu ngoại của bà N T Đ. Do không có tiền tiêu, biết bà Đ thường bỏ nhiều tiền trong túi áo đang mặc và treo bên trong nhà tắm nên T nảy sinh ý định trộm tiền của bà Đ. Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 04/01/2017, T đi bộ đến nhà bà Đ chơi và lấy cây búa dài 33cm, đầu búa bằng sắt chiều dài 0,8cm, cán bằng gỗ dài 16cm, bên trong tủ của bà Đ (do T thường mượn cây búa của bà Đ để đóng đinh nên biết vị trí cất búa) cất giấu bên trong người đem về nhà để chờ bà Đ đi làm thì T sẽ đứng phía ngoài nhà dùng búa đập bể một lỗ gạch ngay vị trí bà Đ thường treo áo phía trong nhà tắm.

Đến 14 giờ cùng ngày, thấy bà Đ đã đi làm, T đi bộ ra bãi đất trống phía sau nhà bà Đắt rồi dùng cây búa đập bể một lỗ gạch trên tường nhà tắm vừa đút lọt bàn tay tại vị trí bà Đ thường treo áo. Sau đó T đi vô nhà tắm của bà Đ thu dọn hết mảnh vỡ của gạch đem đi đỗ phía sau nhà rồi về nhà của T.

Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, T nhìn thấy bà Đ đi làm về rồi đi vào bên trong nhà tắm nên T đứng phía ngoài nhà tắm canh. Bà Đ vào nhà tắm và lấy 11.525.000 đồng được gói trong túi ny lon màu trắng có buộc thun bên ngoài từ trong túi áo đang mặc cất vào túi áo đang treo trong nhà tắm tại vị trí mà T đã đập bể một lỗ gạch trước đó rồi ra khỏi nhà tắm để dọn dẹp nhà. Thấy bà Đ đi ra ngoài, T liền đưa tay vào lỗ thủng trên tường nhà tắm mà T đập bể trước đó rồi lấy 11.525.000 đồng bên trong túi áo của bà Đ.

Sau khi lấy được tiền, T đi chơi và dùng tiền lấy được của bà Đ tiêu xài cá nhân và lên mạng Internet tìm người bán quần, áo, giày, và dây thắt lưng loại giống đồng phục cảnh sát thường sử dụng để mặc cho oai. T mua quần, áo, giày, và dây thắt lưng với tổng số tiền là 1.660.000 đồng rồi mặc vào và điều khiển xe mô tô đi chơi lòng vòng nhiều nơi.

Sau khi phát hiện bị mất tiền, bà Đ nghi T lấy trộm nên đến Công an xã Bạch Đằng, thị xã Tân Uyên trình báo sự việc.

Đến khoảng 21 giờ ngày 11/01/2017, lực lượng Công an phường Khánh Bình, thị xã Tân Uyên nhìn thấy Thái mặc đồng phục cảnh sát nên mời T về phường làm việc và thông báo cho Công an xã Bạch Đằng biết sự việc. Công an xã Bạch Đằng đã tiếp nhận đưa Thái về trụ sở để làm việc. Tại Công an xã Bạch Đằng, T thừa nhận hành vi trộm 11.525.000 đồng của bà Đ và giao nộp 40.000 đồng còn lại cho Công an. Công an xã Bạch Đằng tiến hành thu giữ 01 cây búa dài 33cm, đầu búa bằng sắt chiều dài 0,8cm, cán bằng gỗ dài 16cm, 40.000 đồng và lập hồ sơ ban đầu và chuyển giao hồ sơ cùng vật chứng cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên giải quyết theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên lập biên bản trả cho Thái 164.000 đồng đã bị thu giữ theo các Biên bản về việc trả lại tài sản ngày 15 và 16/8/2017.

Như vậy, tổng giá trị tài sản mà T đã đưa ra thông tin gian dối để chiếm đoạt của ông P V N và ông N H N là 19.000.000 đồng, tổng giá trị tài sản mà T đã lén lút chiếm đoạt của ông Đ T S và bà N T Đ là 41.775.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên toà sơ thẩm, bị cáo khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội trộm cắp tài sản và lừa đảo chiếm đoạt tài sản như cáo trạng truy tố; bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải đối với hành vi đã thực hiện. Đại diện hợp pháp của bị cáo bà N T N P không trình bày bổ sung.

Tại phiên toà, người bị hại bà N T Đ trình bày: Số tiền Đ H T lấy trộm của bà đã bị T tiêu xài hết, hiện không còn; T cũng là cháu ngoại của bà Đ, hiện T cũng không có tiền để trả nên bà Đ cho T toàn bộ số tiền này, không yêu cầu T phái bồi thường; đồng thời bà Đ cho rằng T còn nhỏ, suy nghĩ chưa thấu đáo nên có hành vi sai trái. Do đó, bà Đ đề nghị Hội đồng xét xử xét giảm hình phạt cho bị cáo.

Những người bị hại còn lại cháu P V N và người đại diện hợp pháp của Nam; ông Đ T S, và ông N H N vắng mặt tãi phiên toà sơ thẩm không lý do.Cáo trạng số 143/QĐ-KSĐT ngày 06/10/2017 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1, Điều 138Bộ luật  Hình sự và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Khoản 1 Điều 139 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đ H T phạm tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng Khoản 1, Điều 138; Điểm p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46; Điểm g Khoản 1 Điều 48, Điều 74 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Đ H T từ 18 đến 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

Áp dụng Khoản 1, Điều 139, Điểm p Khoản 1 Điều 46; Điểm g Khoản 1Điều 48; Điều 74 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Đ H T từ 15 đến 18 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Áp dụng Điều 50 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt của tội Trộm cắp tài sản và tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tổng hình phạt đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo Đ H T từ 33 đến 42 tháng tù.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt của bản án này với Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2017/HSST ngày 15/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên.

- Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 41 và Điều 42 Bộ luật Hình sự và Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên: Trả cho người bị hại N T Đ 01 (Một) cây búa dài 33cm, đầu búa bằng sắt chiều dài 0,8cm, cán bằng gỗ dài 16cm; trả cho bị cáo Đ H T 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xám, số IMEN 358234/03/629183/2; 01 áo khoác màu xám bông; 01 cái bóp da màu đen có ghi chữ Mercedes; tịch thu tiêu huỷ 01 cái quần, loại quần cảnh sát màu xanh.

- Phần bồi thường dân sự: Do những những người bị hại không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Người bào chữa cho bị cáo ông N T T trình bày: Thống nhất với Cáo trạng của đại diện Viện Kiểm sát về tội danh, điều khoản truy tố; các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo; về mức hình phạt, đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc về điều kiện, hoàn cảnh gia đình; trình độ học vấn của bị cáo và quy định của pháp luật đối với người chưa thành niên phạm tội để có hình phạt thấu tình, đạt lý.

Lời nói sau cùng của bị cáo Đ H T tại phiên toà, bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai trái nên thấy rất ăn năn hối hận. Bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm quay về làm lại cuộc đời và lo cho gia đình.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

[1]. Về thẩm quyền: Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo xảy ra tại xã Bạch Đằng, xã Hội Nghĩa và phường Khánh Bình, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; lời khai của bị cáo, những người bị hại và đại diện hợp pháp của người bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và tang vật thu giữ được đối với hành vi phạm tội của bị cáo Đ H T, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên khởi tố vụ án, khởi tố bị can là đúng thẩm quyền.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bị hại chưa thành niên và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3]. Về tình tiết định tội, định khung hình phạt: Tại phiên tòa, bị cáo Đ H T khai nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, như vậy, có đủ cơ sở kết luận:

Vào các ngày 10/8/2016 và 02/12/2016, tại xã Hội Nghĩa, phường Khánh Bình, thị xã Tân Uyên tỉnh Bình Dương, Đ H T đã đưa ra thông tin gian dối để ông P V N, N H N tin tưởng nên ông N giao cho T mượn xe mô tô Yamaha Sirius biển số 61X2 – 8533 trị giá 10.000.000 đồng; ông N giao cho T mượn xe môtô hiệu Yamaha Sirius biển số 61E1 – 299.55 trị giá 9.000.000 đồng rồi T chiếm đoạt để sử dụng. Tổng giá trị tài sản mà T dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt của cháu N và ông N là 19.000.000 đồng.

Vào các ngày 08/9/2016, và 04/01/2017 tại phường Khánh Bình và xã Bạch Đằng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, Đ H T lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của ông Đ T S và bà N T Đ đã lén lút chiếm đoạt xe môtô hiệu Yamaha Exciter biển số 61E1 – 349.50 trị giá 30.250.000 đồng của ông S và 11.525.000 đồng của bà Đ. Tổng trị giá tài sản mà T đã chiếm đoạt của ông S và bà Đ là 41.775.000 đồng.

Bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi lén lút và dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật hình sự nhưng vì lười biếng, không muốn lao động nhưng muốn có tiền tiêu xài và thái độ coi thường pháp luật mà cố ý thực hiện. Hành vi của T dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản ông Ph V N, cháu N H N có giá trị 19.000.00 đồng đã cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Khoản 1 Điều 139 Bộ luật Hình sự. Hành vi của T lén lút chiếm đoạt tài sản ông Đ T S và bà N T Đ có giá trị 41.775.000 đồng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Hình sự.

Như vậy, Cáo trạng số 143/QĐ-KSĐT ngày 06/10/2017 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo Đ H T về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Khoản 1, Điều 139 Bộ luật Hình sự cũng như quan điểm luận tội của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Đối với hành vi trộm cắp tài sản: Bị cáo có 2 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 08/9/2016 và ngày 04/01/2017 tại phường Khánh Bình và xã Bạch Đằng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội nhiều lần quy định tại Điểm g, Khoản 1, Điều 48 Bộ luật Hình sự.

Đối với hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Bị cáo 02 lần thực hiện hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản vào ngày 10/8/2016 và 02/12/2016 tại xã Hội Nghĩa và phường Khánh Bình thị xã Tân Uyên tỉnh Bình Dương nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội nhiều lần quy định tại Điểm g Khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự.

[5] Về nhân thân, tiền sự: Ngày 15/8/2016, bị Công an phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép cấp hiệu, phù hiệu ngành công an với số tiền 500.000 đồng, bị cáo chưa chấp hành xong việc nộp phạt.

- Ngày 27/11/2013, bị Ủy ban nhân dân huyện Tân Uyên (nay là thị xã Tân Uyên) ra Quyết định số 8823/QĐ-UBND về việc xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng đối với Đ H T về hành vi trộm cắp tài sản (4 lần trộm cắp tài sản). Thái chấp hành xong ngày 07/02/2014.

- Ngày 15/8/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xử phạt phạt 03 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 25/2017/ HSST.

Như vậy, bị cáo có nhân thân xấu.

[6]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội bị phát hiện, người bị hại bà N T Đ có đơn bãi nại, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại Điểm p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự.

[7]. Căn cứ quyết định hình phạt: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm đối với xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn làm mất an ninh trật tự tại địa phương. Trong thời gain chưa đầy 01 năm, bị cáo T có 11 hành vi trộm cắp tài sản và lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thị xã Tân Uyên và huyện Bắc Tân Uyên bị phát hiện, chưa kể các hành vi trộm cắp tài sản xảy ra liền trước đó bị xử phạt hành chính do bị cáo chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Qua đó cho thấy, bị cáo có thái độ coi thường pháp luật của, lười biếng, không muốn lao động nhưng muốn được hưởng thụ. Do đó, Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi cộng đồng xã hội một thời gian mới tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội; đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung. Tại thời điểm phạm tội bị cáo tuy đã trên 16 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi nên cần áp dụng quy định tại Chương X Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định đối với người chưa thành niên phạm tội đối với bị cáo khi quyết định hình phạt.

Qua các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; tính chất hành vi phạm tội; bị cáo là người chưa thành niên phạm tội; hoàn cảnh gia đình của bị cáo mồ côi cha từ lúc mới được sinh ra; không biết chữ, Hội đồng xét xử thấy cần xem xét giảm một phần hình phạt để bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo sớm trở thành công dân có ích cho xã hội. Mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội; đủ tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung; lời trình bày của người bào chữa cho bị cáo là có cơ sở để Hội đồng xét xử xem xét, chấp nhận.

8]. Về hình phạt bổ sung: Không.

[9]. Về trách nhiệm dân sự: Những người bị hại P V N; Đ Th S, N H N và bà N T Đ không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết. Đối với số tiền 11.525.000 đồng mà bị cáo đã chiếm đoạt của người bị hại N T Đ, tại phiên tòa bà Đ xác định bà cho T số tiền này vì điều kiện hiện tại T không có khả năng bồi thường nên Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện của bà Đ.

[10]. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đen - bạc, biển số 61X2 – 8533 là của bà B T L; Xe mô tô hiệu Yamaha màu trắng xanh Exciter biển số 61E1 – 349.50 là của ông Đ T S; Xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu xanh, biển số 60E1-29955 là của ông N H N nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên trả cho bà L, ông S và ông N là đúng;

01 cây búa dài 33cm, có đầu búa bằng sắt có chiều dài 0,8cm, cán bằng gỗ dài 16cm là tài sản của người bị hại N T Đ nên trả lại cho bà Đ;

01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xám; 01 áo khoác màu xám bông; 01 cái bóp da màu đen có ghi chữ Mercedes là tài sản của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả cho bị cáo;

01 cái quần, loại quần cảnh sát màu xanh đã bị cũ, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu huỷ.

[11]. Về án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

[12]. Về kiến nghị: Hội đồng xét xử thấy không có văn bản hành chính hoặc hành vi hành chính nào của cơ quan nhà nước vi phạm nên không kiến nghị.

[13]. Về việc xem xét việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn: Xét thấy bị cáo đang thi hành án tại Trại giam Long Hoà, thuộc Tổng cục VIII – Bộ Công an (xã Long Hoà, huyện Bến Lức, tỉnh Long An), nên việc giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án là không cần thiết nên Hội đồng xét xử không áp dụng biện pháp ngăn chặn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đ H T phạm tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng Khoản 1 Điều 138; Điểm p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46; Điểm g Khoản 1 Điều 48, Điều 69 và Điều 74 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Đ H T 18 (Mười tám) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

Áp dụng Khoản 1 Điều 139, Điểm p Khoản 1 Điều 46, Điểm g Khoản 1Điều 48, Điều 69 và 74 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đ H T 15 (Mười lăm) tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Áp dụng Điều 50 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt của tội Trộm cắp tài sản và tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là 33 (Ba mươi ba) tháng tù.

- Áp dụng Điểm a, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt của bản án này với Bản án số 25/2017/HSST ngày 15/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương, Đ H T phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 5 (Năm) năm 9 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02/10/2017.

3. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 41, Điều 42 Bộ luật Hình sự và Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:

Trả cho người bị hại N T Đ 01 (Một) cây búa dài 33cm, đầu búa bằng sắt chiều dài 0,8cm, cán bằng gỗ dài 16cm;

Trả cho bị cáo Đ H T 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xám, số IMEN 358234/03/629183/2; 01 áo khoác màu xám bông; 01 cái bóp da màu đen có ghi chữ Mercedes;

Tịch thu tiêu huỷ 01 cái quần, loại quần cảnh sát màu xanh.

Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

4. Về chi phí tố tụng: Áp dụng Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23, Điều 26 và Khoản 6, Điều 27 Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảmthu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án; bị cáo Đ H T phải nộp200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo và người bị hại bà Nguyễn Thị Đắt có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; người bị hại, người đại diện hợp pháp của người bị hại chưa thành niên và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

371
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 191/2017/HSST ngày 27/12/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:191/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;