Bản án 18/2021/HS-ST ngày 10/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 18/2021/HS-ST NGÀY 10/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 10 tháng 3 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 21/2021/TLST-HS ngày 04 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2021/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:

Thào A K, sinh năm 1978 tại huyện Q, tỉnh Sơn La.

Tên gọi khác: Không.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản N 2, xã N, huyện N, tỉnh Điện Biên. Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: Không biết chữ.

Dân tộc: Mông; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Tin Lành; Quốc tịch: Việt Nam.

Con ông: Thào Bìa T, đã chết.

Con bà: Hờ Thị N, sinh năm 1936.

Bị cáo có vợ Giàng Thị G, sinh năm 1978 và 04 con, con lớn nhất sinh năm 1999, con nhỏ nhất sinh năm 2016.

Tiền án, tiền sự: Không Nhân thân: Bị cáo không có án tích, không bị xử phạt vi phạm hành chính.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 27/11/2020, tạm giam ngày 02/12/2020, có mặt.

* Ngư ời bào chữa cho bị cáo Thào A K: Ông Lường Văn B, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án đư ợc tóm tắt như  sau:

Khong 16 giờ 00 phút ngày 26/11/2020, trên đường đi đón con đi học về, Thào A K gặp và giao dịch mua của một người phụ nữ dân tộc Mông khoảng 50 tuổi bị cáo không rõ lai lịch được 12 viên hồng phiến và 01 gói thuốc phiện với giá 250.000 đồng. Mua được ma túy, bị cáo cất vào túi quần bên phải đang mặc và đi về nhà. Tối cùng ngày, bị cáo lấy 02 viên hồng phiến ra sử dụng, số ma túy còn lại bị cáo cất giấu vào khe cột nhà cạnh giường ngủ của bị cáo. Hồi 09 giờ ngày 27/11/2020, khi Thào A K lấy bàn đèn hút thuốc phiện ra chuẩn bị sử dụng thì bị tổ công tác Đồn Biên phòng N phối hợp với Công an huyện N phát hiện bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Cáo trạng số 06/CT-VKSNP ngày 02/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáo Thào A K về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tuyên phạt bị cáo Thào A K từ 18 đến 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự về xử lý vật chứng của vụ án.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Miễn án phí HSST cho bị cáo.

Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249 và tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50 của Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt thấp nhất theo đề nghị của Kiểm sát viên cho bị cáo. Miễn hình phạt bổ sung và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo nhất trí với bản cáo trạng, bản luận tội của Viện Kiểm sát nhân dân huyện N và luận cứ bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã đư ợc tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như  sau:

[1] Về chứng cứ phạm tội:

Biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 09 giờ 30 phút ngày 27/11/2020 bút lục 01, 02 chứng minh bị cáo Thào A K bị bắt khi đang tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác Đồn Biên phòng N phối hợp với Công an huyện N đã thu giữ của bị cáo một gói ni lông màu hồng, mở bên trong có 10 viên nén màu hồng nghi là ma túy tổng hợp. Một gói ni lông màu trắng, bên trong chứa chất nhựa dẻo màu nâu đen nghi là thuốc phiện. Một bộ bàn đèn tự tạo dùng để hút thuốc phiện.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng hồi 17 giờ 05 phút ngày 27/11/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N bút lục số 72, 73 khối lượng vật chứng thu giữ khi bắt quả tang bị cáo Thào A K là 2,6 gam nghi thuốc phiện, trích mẫu gửi giám định 0,78 gam. Khối lượng 10 viên nén màu hồng 1,02 gam nghi là ma túy tổng hợp trích 0,3 gam gửi giám định.

Kết luận giám định số 1034/GĐ-PC09 ngày 09/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên bút lục số 81 đã kết luận: Mẫu viên nén màu hồng trích ra từ vật chứng thu giữ của Thào A K gửi giám định là chất ma túy loại Methamphetamine. Mẫu chất dẻo màu nâu đen trích ra từ vật chứng thu giữ của Thào A K gửi giám định là chất ma túy, loại thuốc phiện. Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 323, mục IIC danh mục II; Thuốc phiện nằm trong danh mục các chất ma túy STT: 398, mục IID danh mục II Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Không hoàn lại đối tượng giám định.

Kết quả tranh tụng tại phiên tòa cho thấy bị cáo Thào A K có tội. Bị cáo đi mua ma túy với mục đích sử dụng cho bản thân. Chứng cứ xác định bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại Điều 249 của Bộ luật hình sự. Hành vi của bị cáo được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp và đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, làm mất trật tự trị an, an toàn xã hội. Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Thào A K có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.

[2] Về tính chất mức độ phạm tội:

Khối lượng ma túy bị thu giữ của Kháng A Thào là 10 viên Methamphetamine có khối lượng 1,02 gam. Bị cáo còn tàng trữ 2,6 gam thuốc phiện. Theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02/02/2018 về việc tính tổng khối lượng các chất ma túy thì tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng của Methamphetamine và thuốc phiện so với mức tối thiểu đối với từng chất được quy định tại khoản 2 của Điều 249 Bộ luật hình sự là 20,92%. Đối chiếu với quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự thì tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng của Methamphetamine và thuốc phiện dưới 100%. Tính chất mức độ phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và phải chịu trách nhiệm hình sự về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 01 năm đến 05 năm tù.

[3] Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo sinh ra và lớn lên ở huyện Q, tỉnh Sơn La. Năm 1996, bị cáo cùng gia đình chuyển về sinh sống tại bản N, xã N, huyện N, tỉnh Điện Biên. Bị cáo là người nghiện ma túy nhiều năm mà không từ bỏ được. Đây là nguyên nhân chính bị cáo thực hiện hành vi phạm tội.

[4] Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Đối chiếu các quy định tại khoản 1 của Điều 52 Bộ luật hình sự thì bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Nhận định trên đây là cơ sở để chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249 và tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50 của Bộ luật hình sự đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt thấp nhất theo đề nghị của Kiểm sát viên cho bị cáo. Miễn hình phạt bổ sung và miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Hội đồng xét xử xem xét và áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt cho bị cáo nhưng vẫn phải nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo thành người có ích cho gia đình và xã hội.

[6] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Song xét điều kiện hoàn cảnh của bị cáo khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương, tài sản trong gia đình không có gì giá trị, bị cáo không giữ chức vụ gì trong xã hội, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với Thào A K.

[8] Về vật chứng: Vật chứng là 1,02 gam Methamphetamine đã trích 0,03 gam gửi giám định không hoàn lại mẫu vật; 2,6 gam thuốc phiện đã trích 0,78 gam gửi giám định không hoàn lại mẫu vật. Vật chứng còn lại 0,72 gam Methamphetamine; 1,82 gam thuốc phiện và 01 bộ bàn đèn tự tạo tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[9] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ do vậy Hội đồng xét xử xem xét miễn án phí HSST cho bị cáo theo quy định tại Điều 136/BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án.

[10] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

[11] Các vấn đề khác: Nguồn gốc số ma túy bị thu giữ bị cáo khai mua của một người đàn ông không rõ lai lịch. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N không có đủ cơ sở để làm rõ đối tượng. Hội đồng xét xử không xem xét.

Bị cáo khai nhận mua ma túy của một người phụ nữ dân tộc Mông khoảng 50 tuổi bị cáo không rõ lai lịch. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N không có cơ sở làm rõ đối tượng. Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Thào A K phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Thào A K 20 (hai mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, ngày 27/11/2020.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:

- 1,02 gam Methamphetamine, trích mẫu gửi giám định 0,3 gam không hoàn lại đối tượng giám định, vật chứng còn lại 0,72 gam cùng toàn bộ giấy ni lông màu trắng, giấy ni lông màu hồng và phong bì niêm phong cũ của Đồn Biên Phòng N, bắt ngày 27/11/2020.

- 2,6 gam thuốc phiện, trích mẫu gửi giám định 0,78 gam không hoàn lại đối tượng giám định, vật chứng còn lại 1,82 gam.

- Một bộ bàn đèn tự tạo dùng để hút thuốc phiện.

(Vật chứng được đựng trong 02 phong bì niêm phong có đặc điểm như biên bản giao, nhận vật chứng hồi 09 giờ 30 phút ngày 03/02/2021 giữa Công an huyện N và Chi cục Thi hành án dân sự huyện N).

4. Án phí: Áp dụng Điều 136/BLTTHS; Điểm đ Khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Miễn án phí HSST cho bị cáo.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo Thào A K được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 10/3/2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 18/2021/HS-ST ngày 10/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Bồ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;