Bản án 18/2021/HS-ST ngày 02/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 18/2021/HS-ST NGÀY 02/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện An Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 03/2021/TLST-HS ngày 14 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2021/QĐXXST - HS ngày 20 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Đức T – sinh năm 1978, tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Thôn H, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 09/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức T và Đỗ Thị N (đã chết); có vợ Đỗ Thị T và có 02 con, lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2014; tiền sự: Không; tiền án: Tại Bản án số 61/2010/HSST ngày 28/9/2010 Tòa án nhân dân huyện An Dương xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt ngày 08/9/2012, chấp hành nghĩa vụ thi hành án dân sự ngày 28/9/2020; nhân thân: Tại bản án số 104/HSST ngày 11/9/2002 của Tòa án nhân dân huyện An Hải (nay là huyện An Dương) xử phạt 20 tháng tù về tội" Cố ý gây thương tích", chấp hành xong hình phạt ngày 23/3/2004; bị cáo bị bắt, tạm giữ ngày 18 tháng 9 năm 2020, chuyển tạm giam ngày 24 tháng 9 năm 2020; có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến: Ông Hà Văn Th; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 00 phút ngày 18/9/2020, tại cổng chung cư Thanh Toàn đường Máng nước xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Hải Phòng bắt quả tang Nguyễn Đức T về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ: Tại lòng bàn tay phải của T có 01 túi nilon bên trong có 04 gói giấy chứa chất bột màu trắng, tại túi quần bên phải đang mặc của T có 02 gói giấy chứa chất bột màu trắng theo Tuấn khai là heroin và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen, 01 xe mô tô biển kiểm soát 16F4-4915.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Đức T tại H, Đ, A, Hải Phòng thu giữ:

01 hộp giấy màu trắng không có nắp đậy bên trong đựng: 01 túi nilon kích thước (4 x 6)cm chứa chất bột màu trắng dạng cục; 01 cân điện tử màu xanh; 01 bật lửa màu đỏ; 01 dao lam; 01 ống hút cuộn bằng tờ tiền mệnh giá 1000 đồng; 11 mảnh giấy ô ly kích thước (4x 4) cm; 05 vỏ túi nilon trắng kích thước (7x 11)cm.

Tại kết luận giám định số 606 ngày 22/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hải Phòng kết luận:

- Chất bột màu trắng thu giữ trong 06 gói giấy khi bắt quả tang là ma túy, khối lượng 0,39 gam, là loại Heroin.

- Chất bột màu trắng thu giữ khi khám xét khẩn cấp là ma túy, khối lượng 3,71 gam, là loại heroin.

Tổng khối lượng heroin là 4,1 gam.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Đức T khai: Tuấn là đối tượng nghiện ma túy, loại Heroin. Buổi sáng ngày 18/9/2020, Tuấn đi đến chung cư Thanh Toàn gặp người phụ nữ tên H khoảng 50 tuổi hỏi mua 2 gói ma túy heroin, sau đó Tuấn cất ở túi quần đi tìm nơi sử dụng nhưng không tìm được. Đến chiều cùng ngày, Tuấn tiếp tục gặp Hoa mua 4 gói ma túy heroin hết 200.000 đồng. Khi Tuấn đang cầm 4 gói heroin trên tay để đi tìm nơi sử dụng thì bị lực lượng công an kiểm tra bắt quả tang. Số ma túy thu giữ khi khám xét khẩn cấp Tuấn mua của Hoa 750.000 đồng vào khoảng 23 giờ ngày 17/9/2020, những đồ vật thu giữ khi khám xét khẩn cấp Tuấn dùng vào việc sử dụng ma túy.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đức T khai nhận như nội dung trên. Ngoài bị cáo ra, không còn ai khác có liên quan hoặc cùng tham gia thực hiện hành vi mua bán trái phép ma túy tại nhà bị cáo.

Công bố lời khai người làm chứng, người chứng kiến có nội dung như bị cáo Bùi Văn Ninh đã khai nhận tại phiên tòa.

Tại Cáo trạng số 11/CT-VKS ngày 13 tháng 01 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Dương đã truy tố bị cáo Nguyễn Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Sau phần xét hỏi công khai tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương phân tích hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 06 năm 06 tháng năm đến 7 năm tù về tội: “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư được niêm phong số 606/2020/PC09 bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định; 01 hộp giấy màu trắng, 01 cân điện tử màu xanh, 01 bật lửa màu đỏ, 01 dao lam, 11 mảnh giấy ô ly, 05 vỏ túi nilon màu trắng.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu đen nhưng tạm giữ để đảm bảo Thi hành án.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng.

Chiếc xe mô tô Suzuki biển kiểm soát 16F4-4915 xác định được số khung nhưng không xác định được số máy nguyên thủy, qua xác minh chủ sở hữu là ông Phạm Hồng K, địa chỉ tại 921 Tôn Đức T, Hải Phòng nhưng hiện ông K không còn sống tại địa chỉ trên, Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra xử lý làm rõ sau.

Đối với người phụ nữ tên H bán ma túy cho Nguyễn Đức T, hiện tại chưa xác định được tên tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

Khi nói lời nói sau cùng, bị cáo đã ăn năn, hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện An Dương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện An Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về chứng cứ xác định có tội:

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với Biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang do Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố Hải Phòng lập vào hồi 15 giờ 30 phút ngày 18 tháng 9 năm 2020, phù hợp với Bản kết luận giám định số 606/KLGĐ ngày 22 tháng 9 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an thành phố Hải Phòng, phù hợp với lời khai người chứng kiến; phù hợp với vật chứng đã được thu giữ, kết hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Đức T đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt quả tang vào hồi 15 giờ 00 phút ngày 18 tháng 9 năm 2020 tại cổng chung cư T (địa chỉ: Đường M, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng.

[3] Khối lượng chất ma túy thu giữ của bị cáo đã được cơ quan giám định tiến hành giám định. Tại Kết luận giám định số 606/KLGĐ ngày 22 tháng 9 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: “- Chất bột màu trắng thu giữ của bị cáo Nguyễn Đức T gửi giám định, là ma túy loại Heroin có tổng khối lượng là 4,1 gam.

[4] Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi do lỗi cố ý trực tiếp đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội, gây nguy hiểm cho xã hội. Như vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội: “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự.

- Xét tình tiết định khung hình phạt:

[5] Ngày 18/9/2020, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Hải Phòng đã bắt quả tang bị cáo Nguyễn Đức T về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngoài ra tại Cơ quan Điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận tối ngày 17/9/2020 bị cáo mua ma túy của người phụ nữ tên Hoa với số tiền 750.000đ. Cơ quan Công an đã khám xét nơi ở của bị cáo và thu giữ số ma túy bị cáo khai đã mua vào ngày 17/9/2020. Như vậy bị cáo đã hai lần tàng trữ trái phép chất ma túy với tổng khối lượng hêrôin bị thu giữ trong vụ án của bị cáo là 4,1 gam nên hành vi của bị cáo bị xét xử theo điểm b khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

- Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[6] Tính chất vụ án là rất nghiêm trọng; việc mua bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý không chỉ ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, trí lực của con người, mà từ ma tuý đã làm phát sinh nhiều tội phạm khác và là một trong những nguyên nhân làm lan truyền căn bệnh HIV/AIDS, là hiểm hoạ đối với mọi gia đình và xã hội. Chính vì vậy, đối với hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử phạt nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

[7] Bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[8] Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn; bị cáo đã tham gia quân đội và có bố đẻ là người có công với cách mạng nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về mức hình phạt:

[9] Bị cáo có nhân thân xấu và lượng ma túy tàng trữ 4,1g hêrôin nên phải áp dụng đối với bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc, mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung.

- Về hình phạt bổ sung:

Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự người phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” có thể bị phạt tiền từ 5.000.000đ đến 500.000.000đ để sung vào công quỹ nhà nước. Xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, không có việc làm ổn định nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng, xử lý vật chứng:

[10] Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư được niêm phong số 606/2020/PC09 bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định.

Một hộp giấy màu trắng, 01 cân điện tử màu xanh, 01 bật lửa màu đỏ, 01 dao lam, 11 mảnh giấy ô ly, 05 vỏ túi nilon màu trắng là công cụ phạm tội nên cần tịch thu tiêu hủy.

Điện thoại di động là tài sản của bị cáo nên trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu đen nhưng tạm giữ để đảm bảo Thi hành án.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng.

[12]Chiếc xe mô tô Suzuki biển kiểm soát 16F4-4915 xác định được số khung nhưng không xác định được số máy nguyên thủy, qua xác minh chủ sở hữu là ông Phạm Hồng K, địa chỉ tại 921 T, Hải Phòng nhưng hiện ông K không còn sống tại địa chỉ trên, Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra xử lý làm rõ sau.

- Về những vấn đề khác:

[13] Đối với người phụ nữ tên H bán ma túy cho Nguyễn Đức T, hiện tại chưa xác định được tên tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

[14] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo 06 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Thời hạn tù của bị cáo Nguyễn Đức T tính từ ngày 18 tháng 9 năm 2020.

Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; các khoản 1, 2, 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì dán kín niêm phong 606/2020/PC09 bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định và 01 hộp giấy màu trắng, 01 cân điện tử màu xanh, 01 bật lửa màu đỏ, 01 dao lam, 11 mảnh giấy ô ly, 05 vỏ túi nilon màu trắng.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước tờ tiền mệnh giá 1.000 đồng.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mastel màu đen đã qua sử dụng; nhưng tạm giữ để đảm bảo nghĩa vụ thi hành án dân sự của bị cáo.

(Toàn bộ số vật chứng trên hiện do Chi cục thi hành án dân sự huyện An Dương quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 14 tháng 01 năm 2021 của Công an huyện An Dương và Chi cục thi hành án dân sự huyện An Dương).

- Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước. Bị cáo có mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 18/2021/HS-ST ngày 02/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;