Bản án 18/2019/HS-ST ngày 25/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHI XUÂN, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 18/2019/HS-ST NGÀY 25/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Bản án 18/2019/HS-ST ngày 25/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy Ngày 25 tháng 4 năm 2019 tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 19/2019/TLST-HS ngày 21 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2019/QĐXXST-HS ngày 10/4/2019 đối với bị cáo: 

Trịnh Thị H, sinh ngày 07 tháng 7 năm 1991 tại xã Xuân Yên, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: TDP A, TT. Xuân A, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Xuân T – sinh năm 1969 và bà Dương Thị D – sinh năm 1968; có chồng: Nguyễn Văn N – sinh năm 1991 và 02 con; tiền án: Không, tiền sự: Không; nhân thân: tốt; bị bắt  tạm  giữ,  tạm  giam  tại  trại  tam  giam  công  an  tỉnh  Hà  Tĩnh  từ  ngày 19/12/2018 đến nay; “có mặt”.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Phan Xuân H1 – Sinh năm: 1960;

Nơi cư trú: Thôn Thành T, xã Xuân T, Nghi Xuân, Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; “vắng mặt”

- Người làm chứng:

+ Lê Thanh H – Sinh năm 1980; Nơi cư trú: Thôn A, xã Cổ Đ, Nghi Xuân, Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; “vắng mặt”

+ Lê Thanh N - Sinh năm 1980; Nơi cư trú: Thôn A, xã Cổ Đ, Nghi Xuân,Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; “vắng mặt”

+ Trần Thị K – Sinh năm 1945; Nơi cư trú: Thôn A, xã Cổ Đ, Nghi Xuân, Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; “vắng mặt”

+ Lê Thị L – Sinh năm 1967; Nơi cư trú: TDP A, TT. Xuân A, Nghi Xuân, Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; “có mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung  vụ án được tóm tắt như sau:

Trịnh Thị H trú tại TDP A, TT. Xuân A, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh nhưng ít khi ở nhà mà thường đi lang thang. Sáng ngày 18/12/2018, H thuê xe ôm đến khu vực bến xe cũ của thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, gặp và mua của một người đàn ông không quen biết một gói ma túy dạng đá với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng). Khi mua người đó cho H thêm một túi nilon màu trắng nhỏ hơn. Sau đó H đi xe buýt về xã Xuân Thành, huyện Nghi Xuân, đi ra bờ biển ngồi chia phần lớn gói ma túy vừa mua được sang túi nilon nhỏ được người bán ma túy cho, phần ít hơn thì để ở túi cũ rồi cất cả hai gói ma túy vào túi quần sau bên trái. Chiều ngày 18/12/2018, H đi đến nhà Lê Thanh H ở thôn A, xã Cổ Đạm chơi và ở nhờ tại đó. Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 19/12/2018, khi H đang ngồi chơi, uống nước tại nhà H cùng với H, Lê Thanh N em trai H và bà Trần Thị K là mẹ H thì có Phan Xuân H1 đến ngồi chơi cùng. Được một lúc H1 hỏi H: “Có hàng không để cho tau cái ba” (ý H1 hỏi H có ma túy không bán cho H1 một gói ba trăm ngàn đồng). Nói xong H1 lấy 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) gồm một tờ polime mệnh giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) và hai tờ polime mệnh giá mỗi tờ 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) ra để trên bàn uống nước. H đồng ý bán và lấy trong người ra một gói ma túy nhỏ đã chia sẵn để trên bàn rồi lấy số tiền H1 để trên bàn cất vào túi quần sau bên trái. H1 cũng cầm gói ma túy H vừa để trên bàn cất vào túi áo bên trái của mình đồng thời hỏi H: “Có tí nào nữa không bỏ ra chơi tí” (ý nói có ma túy nữa không đưa ra cho H1 sử dụng) thì H nói “Chú lấy rồi thì về đi”. Đúng lúc đó lực lượng Công an huyện Nghi Xuân ập vào phát hiện và bắt quả tang hành vi mua bán trái phép chất ma túy của Trịnh Thị H. Lực lượng chức năng thu giữ trong túi áo bên trái của Phan Xuân H1 một túi nilon màu trắng kích thước 1,3x2cm bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể, Hường thừa nhận đây là gói ma túy dạng đá H1 vừa mua của H giá 300.000đ (ba trăm nghìn đồng); thu giữ trong túi quần sau bên trái của Trịnh Thị H số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) gồm một tờ polime mệnh giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) và hai tờ polime mệnh giá mỗi tờ 50.000đ (năm mươi nghìn đồng), H thừa nhận đây là số tiền H vừa bán ma túy cho H1 mà có. Đồng thời H tự nguyện giao nộp thêm một nói nilon màu trắng kích thước 4,3x7,3cm bên trong chứa chất rắn dạng tinh thể. Việc H bán ma túy cho H1 trước sự chứng kiến của mẹ con bà K nhưng bà K, Lê Thanh H và Lê Thanh N do không được trao đổi hay bàn bạc từ trước nên không biết H đang bán gì.

Tại kết luận giám định số 32/GĐMT-PC09 ngày 21/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận:

- Chất rắn màu trắng dạng tinh thể được đựng trong một túi nilon màu trắng, kích thước 1,3x2cm thu giữ của Phan Xuân H1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,0557 gam là Methamphetamine.

- Chấn rắn màu trắng dạng tinh thể được đựng trong một túi nilon màu trắng, kích thước 4,3x7,3cm thu giữ của Trịnh Thị H gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,0155 gam, là Methamphetamine. Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II.C, STT 323, Nghị định 73 ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Tổng khối lượng Methamphetamine thu giữ là 0,0712 (không phẩy không bảy một hai) gam. Đây là toàn bộ số ma túy H khai nhận mua về mục đích bán cho người khác để kiếm lời.

Vật chứng của vụ án:

- 01 (một) túi nilon màu trắng kích thước 4,3x7,3cm thu giữ của Trịnh Thị H   có   khối   lượng   0,0155g   (không   phẩy   không   một   năm   năm   gam) Methamphetamine đã lấy mẫu giám định hết;

- 01 (một) túi nilon màu trắng kích thước 1,3x2cm thu giữ của Phan Xuân H có khối lượng 0,0557g (không phẩy không năm năm bảy gam) Methamphetamine, sau khi lấy mẫu giám định còn lại 0,0447g (không phẩy không bốn bốn bảy gam)

- 300.000đ (ba  trăm ngàn đồng) tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam gồm: một tờ tiền polime mệnh giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) và hai tờ tiền polime mệnh giá 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) thu giữ của Trịnh Thị H.

Số vật chứng còn lại hiện đang thu giữ tại chi cục thi hành án dân huyện Nghi Xuân.

Bản cáo trạng số 17 ngày 19 tháng 3 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố bị cáo Trịnh Thị H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, kiểm sát viên trình bày lời luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù, thời hạn tù tính từng ngày 19/12/2018.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) túi nilon màu trắng kích thước 1,3x2cm có chứa 0,0447g (không phẩy không bốn bốn bảy gam) Methamphetamine.

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam do Trịnh Thị H phạm tội mà có.

Tại phiên tòa bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đồng ý với luận tội của Kiểm sát viên, không có tranh luận và chỉ xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Nhận định của Tòa án về việc vắng mặt của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng tại phiên tòa: Phiên tòa vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và ba người làm chứng nhưng xét việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử nên không cần thiết phải hoãn phiên tòa phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 292 và khoản 1 Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự.

 [2] Nhận định của Hội đồng xét xử về tội danh; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và các điều luật áp dụng đối với bị cáo:

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trịnh Thị H đều khai nhận tội đúng như nội dung vụ án đã được nêu tóm tắt ở phần nội dung vụ án. Xét lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan; phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét và phù hợp với vật chứng cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Xét năng lực chịu trách nhiệm hình sự và hành vi mua bán 0,0712 gam (không phẩy không bảy một hai gam) Methamphetamine của bị cáo thì đã có đầy đủ cơ sở để kết luận bị cáo Trịnh Thị H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 điều 251 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội; Xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người và lây lan tệ nạn nghiện ma túy do đó cần phải xử phạt nghiêm đối với bị cáo và cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để có đủ điều kiện cải tạo, giáo dục đối với bị cáo cũng như răn đe và phòng ngừa chung. Tuy vậy khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần vì đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[3] Phân tích chấp nhận hay không chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, bị cáo:

Xét các nội dung đề xuất đối với Hội đồng xét xử của Kiểm sát viên và bị cáo tại phiên tòa là phù hợp do đó Hội đồng xét xử chấp nhận các đề nghị này. [4]  Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên,

Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:

Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng không có khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan, những người tiến hành tố tụng. Nên hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

 [5] Về xử lý vật chứng: Cần áp dụng điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì thư màu trắng bên trong đựng: 01 túi nilon màu trắng kích thước 1,3x2cm có chứa 0,0447g (không phẩy không bốn bốn bảy gam) Methamphetamine, 01 túi nilon màu trắng kích thước 4,3x7,3cm.

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam thu của Trịnh Thị H.

[6] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải nộp án phí; Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình

Căn cứ điểm b và điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1, điểm a và điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 3, khoản 1 Điều 6, khoản 1 điều 21, điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, Nghị quyết Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

[1] Tuyên bố bị cáo Trịnh Thị H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

[2] Xử phạt bị cáo Trịnh Thị H 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/12/2018.

[3] - Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì thư màu trắng bên trong đựng: 01 túi nilon màu trắng kích thước 1,3x2cm có chứa 0,0447g (không phẩy không bốn  bốn  bảy  gam)  Methamphetamine,  01  túi  nilon  màu  trắng  kích  thước 4,3x7,3cm.

-Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam.

[4] Buộc bị cáo Trịnh Thị H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Bị cáo có quyền kháng cáo lên tòa án cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày được nhận bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 18/2019/HS-ST ngày 25/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghi Xuân - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;