Bản án 18/2019/HNGĐ-ST ngày 21/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẤP VÒ, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 18/2019/HNGĐ-ST NGÀY 21/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 21 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lấp Vò xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 435/2018/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 12 năm 2018 về Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2019/QĐST-HNGĐ ngày 03 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Thị L, sinh năm 1994; địa chỉ: Tổ 1, ấp S, xã T, thị xã B, tỉnh B; (Có mặt)

2. Bị đơn: Anh Cao Văn T, sinh năm 1992; địa chỉ: Số 551, ấp A, xã Đ, huyện L, tỉnh Đ; (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, biên bản hòa giải và tại phiên tòa nguyên đơn Thị L:

Chị L và anh T có tổ chức đám cưới năm 2015 và có đăng ký kết hôn năm 2015 tại Ủy ban nhân dân xã T, thị xã B, tỉnh B vào ngày 10/8/2015. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa chị L và anh T thường xuyên cự cãi, thiếu thốn về kinh tế chi tiêu, sống bên gia đình chồng gò bó, bên gia đình chồng không tôn trọng chị L, anh T đi làm xa muốn cần gì thì nói mẹ chồng, chị L không có tiếng nói trong gia đình, anh T xúc phạm chị L là người ăn bám, không làm được chuyện gì, khi xin về nhà mẹ ruột chơi bên chồng không cho về nói đường xa tiền bạc, nếu có bệnh đau mới cho về. Trước đây, chị L có nộp đơn lên Tòa án huyện Lấp Vò yêu cầu ly hôn với anh T nhưng vì anh T hứa thay đổi nên chị L rút đơn cho anh T cơ hội sửa đổi. Vợ chồng chính thức ly thân nhau từ khoảng 10 năm 2017 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm không còn nên chị L yêu cầu xin ly hôn với anh T.

Có 01 con chung tên Cao Thị Thiên K, sinh ngày 24/10/2015, hiện đang sống với anh T. Chị L đồng ý để anh T nuôi dưỡng, không cấp dưỡng nuôi con; chia tài sản và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Trong biên bản hòa giải và tại phiên tòa bị đơn Cao Văn T trình bày:

Anh T thống nhất với lời trình bày của chị L về thời gian kết hôn, việc đăng ký kết hôn. Sống hạnh phúc khoảng tháng 6, 7 năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn do chị L xin về gia đình mẹ ruột sống và cho rằng sống bên chồng không nổi, trước đây chị L có xin ly hôn, anh T hứa hàn gắn nên đã rút đơn. Nhưng vì điều kiện xa xôi nên đến nay anh T không gặp chị L để hàn gắn, khi nào có dịp đến Bình Phước thì anh T sẽ gặp chị L để hàn gắn nên không đồng ý ly hôn. Hiện anh T đi buôn bán nệm, tủ, thu nhập khoảng 14-15 triệu/tháng. Hiện con đang sống với anh T. Con chung tiếp tục nuôi, không yêu cầu chị L cấp dưỡng. Về chia tài sản và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu:

+ Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán chấp hành đúng quy định của pháp luật.

+ Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Người tham gia tố tụng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật.

+ Tại phiên tòa Hội đồng xét xử và thư ký đã tuân thủ theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

+ Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn. Cho chị L được ly hôn. Con để anh T nuôi dưỡng, không xem xét cấp dưỡng. Tài sản, nợ chung không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh T đang sinh sống tại huyện Lấp Vò nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Lấp Vò, theo quy định tại Điều 28; Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân:

Chị L và anh T chung sống với nhau, có đăng ký kết hôn, được Uỷ ban nhân dân xã T, thị xã B, tỉnh B cấp giấy chứng nhận kết hôn số 86/2015 ngày 10/8/2015 nên hôn nhân giữa chị L và anh T là hôn nhân hợp pháp.

Chị L và anh T phát sinh mâu thuẫn và xa nhau từ tháng 10 năm 2017 đến nay. Chị L đã rút đơn xin ly hôn một lần nhưng đến nay anh T cũng không tìm gặp chị L để hàn gắn. Tại phiên tòa anh T cho rằng cần có thời gian 02-03 năm nữa để anh T thu xếp chuyện gia đình thì mới tìm chị L hàn gắn, tuy nhiên, anh T không đồng ý ly hôn. Xét thấy, cuộc sống hôn nhân hạnh phúc phải xuất phát từ sự tự nguyện, quan tâm, yêu thương, chăm sóc, chia sẻ cho nhau. Nhưng khi mâu thuẫn thì chị L và anh T đều tự lo cuộc sống riêng, không quan tâm đến nhau, chị L bỏ về nhà cha mẹ ruột sống, anh T cũng không lần nào tìm cách hàn gắn với chị L. Chị L đã rút đơn xin ly hôn một lần nhưng anh T không có động thái gì để hàn gắn, dẫn đến chị L tiếp tục xin ly hôn như hôm nay.

Tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“Điều 19. Tình nghĩa vợ chồng

1. Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.

2. Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác.”

Tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“Điều 56. Ly hôn theo yêu cầu của một bên

1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.”

Từ nhận định và điều luật viện dẫn trên, xét thấy hôn nhân giữa chị L và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên yêu cầu xin ly hôn của chị L là có căn cứ. Đề nghị của Kiểm sát viên cho ly hôn là phù hợp nhận định của Hội đồng xét xử.

[2.2] Về nuôi con chung:

Quá trình thu thập chứng cứ và tại phiên tòa xác định chị L và anh T có 01 con chung tên Cao Thị Thiên K, sinh ngày 24/10/2015, hiện đang sống với anh T. Chị L và anh T đồng ý để anh T nuôi dưỡng, anh T không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con.

Chị L không trực tiếp nuôi con được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, anh T và các thành viên trong gia đình không được cản trở, theo quy định tại Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.3] Về chia tài sản và nợ chung: Chị L và anh T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Chị L xin ly hôn nên phải nộp án phí sơ thẩm, theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 19, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân:

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Thị L.

Chị Thị L được ly hôn với anh Cao Văn T.

2. Về nuôi con chung:

Anh Cao Văn T được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Cao Thị Thiên K, sinh ngày 24/10/2015, hiện đang sống với anh T. Anh T không yêu cầu chị Thị L cấp dưỡng nuôi con.

Chị Thị L được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Anh T và các thành viên trong gia đình không được cản trở chị L thực hiện quyền này.

3. Về án phí:

Chị Thị L phải nộp đủ 300.000 đồng án phí sơ thẩm hôn nhân và gia đình, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0007173 ngày 27 tháng 12 năm 2018 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lấp Vò. Chị Thị L đã nộp đủ.

4. Án xử công khai. Đương sự có mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 18/2019/HNGĐ-ST ngày 21/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:18/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lấp Vò - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;