TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 181/2019/HS-ST NGÀY 10/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Hôm nay, ngày 10 tháng 05 năm 2019, tại hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý sô: 200/2019/TLST-HS ngay 05 tháng 04 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 192/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 04 năm 2019 đôi vơi các bị cáo:
1) Nguyễn Văn D- sinh ngày 14/3/1986, tại Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT: xóm BN, xã CL, huyện PL, tỉnh TN, nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn Ch, sinh năm 1966 và bà: Bùi Thị M, sinh năm 1966, gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: không; Tiền án: 02
- Tại Bản án số 24/2015/HSST ngày 24/4/2015 Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”, thi hành xong án phí tháng 6/2015.
- Tại Bản án số 97/2015/HSST ngày 24/11/2015 Tòa án nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” trị giá tài sản 817.000đ. Tổng hợp hình phạt 2 bản án thành 30 tháng tù. Thi hành xong hình phạt tù ngày 18/10/2017.
Nhân thân: Tại quyết định số 1233 ngày 24/4/2012 Chủ tịch UBND huyện Phú Lương Quyết định đưa người nghiện (Nguyễn Văn D) vào chữa bệnh bắt buộc tại Trung tâm chữa bệnh, giáo dục, lao động và xã hội huyện Phú Lương thời gian 18 tháng, chấp hành xong ngày 25/10/2013.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/12/2018 cho đến nay tại Trại tạm giam công an tỉnh Thái Nguyên – Có mặt tại phiên tòa.
2) Nguyễn Mạnh H- sinh ngày 04/12/1977, tại Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT: xóm Y, xã SC, TPTN, tỉnh TN, nghề nghiệp: tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn T (đã chết) và ba: Nguyễn Thị L (đã chết), gia đình bị cáo có 04 anh chị em, bị cáo là con thứ tư; Vợ: Ngô Thị H, sinh năm 1985, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/12/2018 cho đến nay tại Trại tạm giam công an tỉnh Thái Nguyên – Có mặt tại phiên tòa
*Người chứng kiến: Anh Ngô Xuân D1, sinh năm 1986 ( vắng mặt)
Trú tại: xóm X 2, xã SC, TPTN, tỉnh TN.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 20/12/2018 khi Nguyễn Văn D đi uống Methadol ở Trung tâm y tế huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên thì nhận được điện thoại của Nguyễn Mạnh H xuống đường tròn TL, thành phố Thái Nguyên đón Hòa rồi cùng nhau đi mua Heroine để cùng sử dụng. D đồng ý, sau khi uống Methadol D đi nhờ xe của một người không quen biết đến chỗ H, khi đến nơi D và H cùng đi bộ xuống khu vực phường QTr, thành phố Thái Nguyên tìm mua Heroine để sử dụng, trên đường đi D đưa cho H 50.000đ để mua ma túy. Khi cả hai đi đến khu vực chợ QTr gặp được một người phụ nữ không quen biết, qua giao dịch H và D mua của người phụ nữ trên được 01 gói Heroine và 2 xy lanh nhựa với giá 110.000đ. H cầm gói Heroine ở tay trái cả hai đi tìm chỗ vắng người để sử dụng, khi đi đến khu vực xóm A, xã SC, thành phố Thái Nguyên thì bị tổ công tác công an xã SC tiến hành kiểm tra, H đã tự giác giao nộp 01 gói nilon màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng H và D khai đó là Heroine, ngoài ra tổ công tác còn thu giữ 02 xy lanh nhựa chưa qua sử dụng. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng, niêm phong theo quy định. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng chât bôt mau trăng thu gi ữ của H và D là 0,218 gam, niêm phong ký hiệu A1 gửi giám định.
Tại bản kết luận giám định số 179/KL-PC09 ngày 28/12/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng trong mẫu A1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine.
Bản cáo trạng số 198/CT-VKSTPTN ngày 03 tháng 04 năm 2019 của Viện kiêm sat nhân dân thành ph ố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên truy tố các bị cáo Nguyễn Văn D, Nguyễn Mạnh H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.
Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận do nghiện ma túy nên đã góp tiền cùng nhau mua ma túy để sử dụng bản thân và bị lực lượng công an khám xét thu giữ như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên luận tội các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn D, Nguyễn Mạnh H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn D. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D từ 30-36 tháng tù, bị cáo Nguyễn Mạnh H từ 18-24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo; Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy phong bì niêm phong ký hiệu A1 bên trong chứa ma túy, 02 xi lanh nhựa; Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của UBTVQH14 Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Phần tranh luận: các Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, tại lời nói sau cùng các bị cáo nhận thức hành vi vi phạm của mình đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án nhẹ nhất để các bị cáo cải tạo tốt sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[2] Nhận định của Hội đồng xét xử về hành vi phạm tội của các bị cáo: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa là hoàn toàn khách quan, phù hợp với lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người chứng kiến sự việc, phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Nguyên về số chất bột màu trắng được thu của các bị cáo là Heroine. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Do nghiện ma túy khoảng 09 giờ ngày 20/12/2018 Nguyễn Văn D, Nguyễn Mạnh H cùng nhau góp tiền mua của một người phụ nữ tên Hồng 110.000đ Heroine để sử dụng. Hồi 09 giờ 40 phút cùng ngày khi Duy và Hòa đang trên đường tìm nơi sử dụng thì bị tổ công tác của Công an xã SC, thành phố Thái Nguyên bắt, thu giữ vật chứng, qua cân kiểm tra số chất bột màu trắng xác định khối lượng 0,218gam, giám định là Heroine.
[3] Với hành vi mua 0,218gam Heroine với mục đích để sử dụng như trên hành vi của các bị cáo Nguyễn Văn D, Nguyễn Mạnh H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.
[4] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của các bị cáo đã xâm phạm quyền quản lý, sử dụng độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn và tội phạm khác. Tệ nạn ma túy là hiểm họa lớn cho toàn xã hội, hành vi của các bị cáo không chỉ hủy hoại sức khỏe của bản thân, làm suy thoái giống nòi, làm khánh kiệt kinh tế, phá hoại hạnh phúc gia đình mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội. Bản thân các bị cáo phải nhận thức được tác hại của ma túy đối với người sử dụng và đối với xã hội tuy nhiên các bị cáo không từ bỏ ma túy mà vẫn mua Heroine phục vụ cho nhu cầu của bản thân.
[5] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xét nhân thân bị cáo D là đối tượng nghiện đã bị đưa vào chữa bệnh bắt buộc tại Trung tâm Chữa bệnh giáo dục lao động xã hội vì nghiện ma túy, bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, bị cáo H không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào, các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với vai trò đồng phạm giản đơn do đó Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[6] Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự các bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung “ phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng....tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Xét bị cáo là đối tượng nghiện, không có nghề nghiệp, không có tài sản, thu nhập, mua ma túy với mục đích để sử dụng do đó Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
[7] Xử lý vật chứng: Đối với bì niêm phong Heroine và xi lanh cần tịch thu tiêu hủy.
[8] Các Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
[9] Về nguồn gốc số Heroine Nguyễn Văn D, Nguyễn Mạnh H khai mua của một người phụ nữ tên Hồng ở nhà nghỉ Trường Phúc thuộc phường QTr, thành phố Thái Nguyên, Qua xác minh Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố không có cơ sở để để xử lý trong vụ án, Hội đồng xét xử tiếp tục kiến nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ.
[10] Mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa đối với Nguyễn Mạnh H xét thấy là phù hợp, được chấp nhận, đối với Nguyễn Văn D có phần nghiêm khắc.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn D, Nguyễn Mạnh H phạm tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy".
[2] Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 (áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 52 đối với Nguyễn Văn D); Điều 58 Bộ luật hình sự 2015.
Xử phạt: Nguyễn Văn D 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/12/2018.
Nguyễn Mạnh H 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/12/2018.
[3] Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Quyết định tạm giam các bị cáo Nguyễn Văn D, Nguyễn Mạnh H mỗi bị cáo 45 (Bốn mươi năm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
[4] Xử lý vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong theo đúng quy định ký hiệu A1 bên trong chứa ma túy; 02 xi lanh nhựa.
(Hiện vật chứng nêu trên đang lưu giữ tại kho của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên theo biên bản giao nhận số 258 lập ngày 14/2/2019).
[5] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Các Bị cáo Nguyễn Văn D, Nguyễn Mạnh H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm
[6] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Bị cáo Nguyễn Văn D, Nguyễn Mạnh H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 181/2019/HS-ST ngày 10/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 181/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/05/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về