TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 180/2022/HS-PT NGÀY 18/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG
Ngày 18 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 143/2022/TLPT-HS ngày 19 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo Hồ Trung S do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 17/2022/HSST ngày 26 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Tiền Giang.
- Bị cáo có kháng cáo:
HỒ TRUNG S (Tên gọi khác Mìn), sinh năm 1984 tại tỉnh Tiền Giang.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp G, xã Đ, huyện T, tỉnh Tiền Giang; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Hồ Văn T - sinh năm 1954 và bà Mai Thị X - sinh năm 1955. Vợ: Phạm Thị Mỹ H – sinh năm 1984 (đã ly hôn); Con: có 03 người, lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2009. Tiền sự, tiền án: không.
Bị cáo tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.
- Ngoài ra trong vụ án còn có 01 bị cáo nhưng không kháng cáo; bản án không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Nguyễn Đức T và bị cáo Hồ Trung S là bạn bè, có lưu số điện thoại và có kết bạn trên mạng xã hội Zalo. Vào khoảng cuối năm 2019, bị cáo Hồ Trung S điều khiển sà lan đến địa bàn thị xã C, tỉnh An Giang để kinh doanh cát, quá trình múc cát từ dưới sông lên sà lan, bị cáo Hồ Trung S phát hiện và nhặt được 01 đoạn dây đạn gồm 173 viên đạn và đã chụp hình, đăng lên trang cá nhân trên Zalo nên bị cáo Nguyễn Đức T nhìn thấy và T nảy sinh ý định xin S số đạn trên.
Khi bị cáo Nguyễn Đức T điện thoại hỏi xin thì bị cáo Hồ Trung S đồng ý cho số đạn vừa nhặt và hẹn T khi S lái sà lan từ An Giang về đến nhà tại xã Đ, huyện T, tỉnh Tiền Giang sẽ đem cho T. Ngày hôm sau, khi về đến nhà, S mang 01 đoạn dây đạn gồm 173 viên đạn đến phòng trọ số 20, nhà trọ “V” tại ấp H, xã B, huyện T, tỉnh Tiền Giang nơi T thuê ở trọ để cho T. Sau khi nhận số đạn trên thì T có mở ra xem, nhìn thấy một số viên đạn bị cũ, dính cát nên đem lau rửa lại sau đó bỏ vào balô màu đen xanh và đựng trong túi ni lông màu đen cất giữ trên nóc nhà tắm tại phòng trọ số 20, nhà trọ “V”.
Chiều ngày 22/3/2021, T có gọi điện thoại cho Trương Minh T2 (T2 Chùa), sinh năm 1990, ngụ ấp B, xã Đ, huyện T, tỉnh Tiền Giang nhờ T2 đến phòng trọ số 20, nhà trọ “V” lấy dùm 01 ba lô màu đen để trên nóc nhà tắm mang về nhà bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1947, ngụ ấp Y, xã Z, huyện T, tỉnh Tiền Giang (mẹ ruột của T) cất giùm và được T2 đồng ý, khi đến nhà trọ “V” T2 leo lên nóc nhà tắm và nhìn thấy 01 túi ni lông màu đen nên có lấy và mang đến nhà bà L để cất dùm cho T. Ngày 22/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã khởi tố bị can và bắt bị can để tạm giam đối với Nguyễn Đức T về tội “Cố ý gây thương tích”. Quá trình điều tra xác định Nguyễn Đức T tàng trữ số đạn nêu trên nên Cơ quan điều tra tiến hành thu giữ vào ngày 24/3/2021 Kết luận giám định số 1890/C09B ngày 29/3/2021, Công văn số 718/CV/C09B ngày 08/10/2021 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chi Minh kết luận: “01 (một) đoạn dây đạn gồm 173 viên đạn bằng kim loại màu vàng, đít đạn cùng ký hiệu LC 72 là vũ khí quân dụng, là đạn quân dụng cỡ (7,62x63)mm; loại đạn này thường sử dụng để bắn cho một số loại súng quân dụng cỡ nòng 7,62mm như: M19XX Springfield, M1 Garand… Sử dụng súng phù hợp bắn với loại đạn quân dụng cỡ (7,61x63)mm, đạn nổ vào cơ thể người có thể gây thương tích hoặc tử vong.” Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2022/HSST ngày 26 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Tiền Giang đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Hồ Trung S phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” Áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 304, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 Xử phạt: Bị cáo Hồ Trung S 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành bản án.
Ngoài ra trong bản án còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
* Ngày 06 tháng 5 năm 2022, bị cáo Hồ Trung S có đơn kháng cáo với nội dung: Xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa:
- Bị cáo Hồ Trung S: Giữ nguyên yêu cầu kháng cáo nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang xác định đơn kháng cáo của bị cáo nộp trong hạn nên được xem xét. Cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo Hồ Trung S phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng xử phạt bị cáo 01 năm tù là phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo gây nên. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới, bị cáo chỉ được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định Điều 51 Bộ luật Hình sự nên không đủ điều kiện hưởng án treo. Do đó không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo nên đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa, bị cáo Hồ Trung S đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng và Bản án sơ thẩm đã nêu, lời nhận tội của bị cáo là phù hợp với lời khai của người làm chứng và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã thể hiện: Vào khoảng cuối năm 2019, bị cáo Hồ Trung S điều khiển sà lan đến địa bàn thị xã C, tỉnh An Giang để kinh doanh cát, quá trình múc cát từ dưới sông lên sà lan, bị cáo Hồ Trung S phát hiện, nhặt được 01 đoạn dây đạn gồm 173 viên đạn và đã chụp hình, đăng lên trang cá nhân trên Zalo nên bị cáo Nguyễn Đức T nhìn thấy và T nảy sinh ý định xin S số đạn trên. Khi bị cáo Nguyễn Đức T điện thoại hỏi xin thì bị cáo Hồ Trung S đồng ý cho số đạn vừa nhặt và hẹn T khi S lái sà lan từ An Giang về đến nhà tại xã Đ, huyện T, tỉnh Tiền Giang sẽ đem cho T. Như vậy cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo Hồ Trung S phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Hành vi của bị cáo rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền vũ khí quân dụng của Nhà nước, lẽ ra khi phát hiện 173 viên đạn thì bị cáo phải trình báo với Cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xử lý theo quy định của pháp luật nhưng bị cáo lại cất giữ và sau đó tặng lại cho bị cáo Nguyễn Đức T. Hành vi của bị cáo thể hiện sự xem thường pháp luật nên cần phải xử lý nghiêm là cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo thành người có ích và phòng ngừa chung cho xã hội.
[3] Xét yêu cầu kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo chỉ được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Thật thà khai báo, ăn năn hối cải” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên không đủ điều kiện để hưởng án treo theo quy định tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 và Nghị quyết 01/2022 NQ- HĐTP ngày 15/4/2022 (sửa đỗi, bổ sung của Nghị quyết số: 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018) của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo. Do đó Hội đồng xét xử không có căn cứ để cho bị cáo hưởng án treo theo yêu cầu kháng cáo của bị cáo.
[4] Xét ý kiến và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên có xem xét khi nghị án.
[5] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
- Vì các lẽ trên,
- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự.
QUYẾT ĐỊNH
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Hồ Trung S.
Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số:17/2022/HSST ngày 26 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Tiền Giang đã quyết định:
Tuyên bố: Bị cáo Hồ Trung S phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.
Áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 304, Điều 38 Bộ luật hình sự ; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử phạt: Xử phạt bị cáo Hồ Trung S 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành bản án.
2. Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.\
Bản án 180/2022/HS-PT về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng
Số hiệu: | 180/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tiền Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/08/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về