Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 55/2021/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 55/2021/HSST NGÀY 11/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG

Ngày 11 tháng 6 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 21/2021/HSST ngày 23/3/2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Thanh T, sinh ngày 31/8/1988; tại Long Xuyên, An Giang; nơi cư trú: 30/10, khóm Đ, phường Mỹ Th, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; con ông: Nguyễn Văn D, sinh năm 1967 và bà Nguyễn Kim H (chết); vợ: Lâm Thị Diễm N, sinh năm 1988; Có 02 con, con lớn sinh năm 2011 và nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Chưa; bị cáo bị tạm giam từ ngày 06/10/2020 cho đến nay và có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo T: Luật sư Hồ Hoàng P – Văn phòng Luật sư Hồ Hoàng P – Đoàn luật sư tỉnh An Giang – Có mặt.

Người làm chứng: Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1982 (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tháng 02/2020, khoảng 21 giờ 30 (không nhớ rõ ngày) sau khi uống rượu Nguyễn Thanh T điều khiển chạy xe về nhà, khi đến đoạn đường Tăng Bạt Hổ, T phát hiện ở giữa đường có một bao màu trắng (loại bao đựng lúa), trong bao đựng một vật được quấn bao nilong màu trắng hình dạng giống khẩu súng có dán băng keo, T đem vật này về nhà, mở ra xem thấy 01 khẩu AK báng xếp cùng 30 viên đạn, T nảy sinh ý định cất giấu khẩu súng cùng 30 viên đạn để phòng thân. Sau đó T để khẩu súng cùng 30 viên đạn vào bao rồi đem đến vườn trồng xoài của Nguyễn Ngọc T (sinh năm 1982, em họ của T) ngụ tổ 4, khóm Đông Thạnh, phường Mỹ Th, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, cách nhà T khoảng 300m, dùng len có sẵn đào một cái hố và chôn giấu khẩu súng và 30 viên đạn. Đến ngày 30/6/2020, T đến Công an phường Mỹ Th, thành phố Long Xuyên tự thú. Sau khi Công an phường Mỹ Th lập biên bản tiếp nhận người phạm tội ra tự thú, lực lượng chức năng tiến hành đến vườn trồng xoài của ông Nguyễn Ngọc T để truy tìm và đào hố thu giữ 01 khẩu súng AK báng xếp, trên thân súng có ký hiệu 1976218841 và 01 hộp tiếp đạn có 30 viên đạn.

* Vật chứng và T sản thu giữ gồm: 01 khẩu súng AK báng xếp, trên thân súng có ký hiệu 1976218841 và 01 hộp tiếp đạn có 30 viên đạn; 01 điện thoại di động hiệu Nokia, kèm theo 02 sim điện thoại số 0972426852 và 0783754915.

* Kết luận giám định số 3974/C09B ngày 06/8/2020 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- Khẩu súng gửi giám định là súng tiểu liên Kalashnikos (AK) báng xếp, ký hiệu 1976218841.

- 30 (Ba mươi) viên đạn gửi giám định là loại đạn cỡ 7,62mm x 39mm, dùng cho các loại súng có cỡ nòng 7,62mm như: AK, CKC, RPD… - Tiến hành bắn thực nghiệm với khẩu súng và các viên đạn gửi giám định, kết quả đạn nổ. Khẩu súng và các viên đạn nêu trên là vũ khí quân dụng.

* Kết luận giám định số 319/2020/KLGĐ và số 319.0/PYTT cùng ngày 18/12/2020 của Trung T Pháp y T thần khu vực Tây Nam Bộ kết luận đối với bị can Nguyễn Thanh T như sau:

- Về y học: Trước, trong khi phạm tội: Bị cáo không bệnh lý T thần. Sau khi phạm tội và hiện tại: Bị cáo có bệnh lý T thần, giai đoạn trầm cảm nhẹ (F32.0 - ICD10).

- Về năng lực: Tại thời điểm phạm tội: Bị can đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Hiện tại: Bị cáo hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.

- Về trách nhiệm hình sự: Tại thời điểm phạm tội và hiện tại: Bị can có năng lực trách nhiệm hình sự.

Cáo trạng số: 17/CT-VKS ngày 23/3/2021 của Viện kiểm sát Nhân dân tỉnh An Giang, truy tố Nguyễn Thanh T về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo khoản 1 điều 304 Bộ Luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng: khoản 1 Điều 304, điểm q, r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt Nguyễn Thanh T từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.

Về xử lý vật chứng đề nghị: Áp dụng Điều 46, điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Về hình phạt bổ sung: Do hoàn cảnh kinh tế gia đình của bị cáo khó khăn nên đề nghị miễn hình phạt phạt bổ sung đối với bị cáo T.

Luật sư bào chữa cho bị cáo có ý kiến: Thống nhất với đại diện Viện kiểm sát về tội danh. Về hình phạt: Đề nghị có xem xét cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ như đề nghị Viện kiểm sát. Bị cáo thừa nhận hành vi tàng trữ vũ khí nhưng với mục đích là tiêu hủy và hậu quả chưa xảy ra, bị cáo ăn năn hối cải về hành vi của mình, sau khi phạm tội đã đầu thú, bản thân bị cáo có dấu hiệu T thần nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức đầu của khung hình phạt cũng đủ tác dụng răn đe đối với bị cáo.

Bị cáo thống nhất với ý kiến của luật sư bào chữa và không có ý kiến gì thêm. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, bị cáo đã ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Long Xuyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Người làm chứng Nguyễn Ngọc T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Xét thấy, Cơ quan điều tra đã tiến hành lấy lời khai và làm rõ các tình tiết vụ án nên việc vắng mặt của anh T không làm ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về trách nhiệm hình sự:

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay còn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phú hợp với các chứng cứ khác đó là: lời khai người làm chứng, vật chứng thu giữ được, kết luận giám định cùng với các chứng cứ khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Đã đủ căn cứ để xác định: Khoảng tháng 02/2020, sau khi nhặt được một bao màu trắng (loại bao đựng lúa), bên trong có 01 khẩu AK báng xếp cùng 30 viên đạn, T đã cất giấu khẩu súng cùng 30 viên đạn tại vườn trồng xoài của anh Nguyễn Ngọc T (sinh năm 1982, em họ của T). Đến ngày ngày 30/6/2020, T đến Công an phường Mỹ Th, thành phố Long Xuyên tự thú như nội dung cáo trạng đã truy tố. Hành vi này của bị cáo đã cấu thành phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự năm 2015 với khung hình phạt từ 01 năm đến 07 năm tù.

Qua các chứng cứ, T liệu, đồ vật đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến của người bào chữa; bị cáo. Việc đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên luận tội và đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng truy tố bị cáo như đã nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội nên được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

[4] Về tính chất mức độ của hành vi phạm tội:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý, sử dụng vũ khí quân dụng của Nhà nước mà còn có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng về tính mạng sức khỏe và T sản của người khác. Bị cáo biết, tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng là vi phạm pháp luật, lẽ ra sau khi nhặt được khẩu súng thì phải giao nộp cho cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để quản lý theo quy định, nhưng thay vào hành động đúng đắn đó, thì bị cáo lại lựa chọn cách ứng xử vi phạm pháp luật là đem đi cất giấu, thể hiện tính xem thường pháp luật của bị cáo. Do đó, luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị xem xét cho bị cáo được hưởng mức đầu của khung hình phạt là không có đủ cơ sở để xem xét. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân biết tôn trọng pháp luật đồng thời cũng để răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội.

[5] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tính tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Được xem xét các tình tiết giảm nhẹ là: Tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, thể hiện thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân, bị cáo đã tự thú và là người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm q, r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, bị cáo không có T sản, không có thu nhập, nên đại diện Viện kiểm sát đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo là có căn cứ nên được chấp nhận.

[7] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh An Giang có thu giữ và chuyển giao cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh An Giang 01 khẩu súng AK báng xếp, trên thân súng có ký hiệu 1976218841 cùng với 01 hộp tiếp đạn có 15 viên đạn và Chuyển giao cho Chi cục thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên 01 điện thoại di động hiệu Nokia, kèm theo 02 sim điện thoại số 0972426852 và 0783754915 sẽ được xử lý như sau: 01 khẩu súng AK báng xếp, trên thân súng có ký hiệu 1976218841 cùng với 01 hộp tiếp đạn có 15 viên đạn là tang vật của vụ án nên cần giao cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh An Giang xử lý theo quy định pháp luật. Đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia, kèm theo 02 sim điện thoại số 0972426852 và 0783754915 là T sản của bị cáo T không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

[9] Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Bởi các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 điều 304, điểm q, r, s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Bộ luật Hình sự năm 2015.

[1] Xử phạt: bị cáo Nguyễn Thanh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.

Thời hạn tù tính từ ngày 06/10/2020.

[2] Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Thanh T.

[3] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố Tụng hình sự.

Giao cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh An Giang: 01 khẩu súng AK báng xếp, trên thân súng có ký hiệu 1976218841 cùng với 01 hộp tiếp đạn có 15 viên đạn, để xử lý theo quy định pháp luật.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan an ninh điều tra công an tỉnh An Giang và Bộ chỉ huy quân sự tỉnh An Giang lập ngày 25/3/2021) Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thanh T: 01 điện thoại di động hiệu Nokia, kèm theo 02 sim điện thoại số 0972426852 và 0783754915.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan an ninh điều tra công an tỉnh An Giang và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên lập ngày 26/3/2021)

[4] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 333, Điều 337 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án ./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1137
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 55/2021/HSST

Số hiệu:55/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;