TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG – THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 177/2023/HS-ST NGÀY 18/08/2023 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
Ngày 18 tháng 8 năm 2023, tại Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 89/2023/TLST-HS ngày 27 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 116/2023/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 6 năm 2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 24A/2023/HPT- QĐ ngày 28/6/2023, Quyết định hoãn phiên tòa số 29/2023/HPT- QĐ ngày 28/7/2023 đối với các bị cáo:
1. Trần Hải V, sinh năm 1979; HKTT: Số 39B Nguyễn Đình Chiểu, phường Lê Đại Hành, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội; Nơi ở: Số 29 ngách 2 ngõ G, phường T, quận E, Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Văn hóa:10/10. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Trần Minh B và con bà Nguyễn Thị T; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 14/11/1995, công an phường Nguyễn Du xử phạt cảnh cáo về hành vi Cưỡng đoạt tài sản. Ngày 24/01/1996, công an phường Nguyễn Du xử phạt cảnh cáo về hành vi Cưỡng đoạt tài sản. Năm 1996, công an quận Hai Bà Trưng bắt về hành vi Cướp tài sản của công dân (trích lục: không thu thập được kết quả xử lý). Năm 1997, công an quận Ba Đình bắt về hành vi Trộm cắp tài sản của công dân (tại ngoại, trích lục có nhưng không nêu hình thức xử lý, xác minh không có kết quả). Năm 1997, công an huyện Nam Từ Liêm bắt về hành vi Trộm cắp tài sản của công dân (tại ngoại, trích lục có nhưng không nêu hình thức xử lý). Ngày 16/3/2003, công an phường Lê Đại Hành bắt đi cơ sở giáo dục 18 tháng. Ngày 16/5/2007, công an phường Lê Đại Hành đưa đi cai nghiện ma túy bắt buộc 24 tháng. Ngày 30/01/2010, công an phường Láng Hạ xử phạt cảnh cáo về hành vi Trộm cắp tài sản. Ngày 17/10/1997, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 24 tháng tù về tội Cướp giật tài sản của công dân, đã xóa án tích. Ngày 11/01/2011, Tòa án nhân dân quận Đống Đa, Hà Nội xử phạt 30 tháng tù về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, đã xóa án tích. Theo Danh chỉ bản số 77 lập ngày 09/01/2023 do Công an quận Hai Bà Trưng cung cấp. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
2. Trương Quý T, sinh năm 1993; HKTT: Số 336 phố H, phường P, quận E, Hà Nội; Nơi ở: Số 2 ngách 8 ngõ Q, phường T, quận E, Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Trương Quý K và con bà Dương Thị Ngọc A; Tiền án: Không; Tiền sự: Không. Theo Danh chỉ bản số 76 lập ngày 09/01/2023 do Công an quận Hai Bà Trưng cung cấp. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
3. Nguyễn Văn C, sinh năm 1995; HKTT: Thôn P, xã L, huyện A, thành phố Hải Phòng; Nơi ở: Phòng 204 nhà 10 ngõ 2D K, phường K, quận Đ, Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Văn hóa: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con bà: Nguyễn Thị Vốn; Tiền án: - Ngày 27/02/2020, Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội xử phạt 16 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (chưa xóa án tích); Tiền sự: Không; Nhân thân: Năm 2016, Công an quận Tây Hồ, Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi Cố ý gây thương tích (đã hết thời hiệu). Danh chỉ bản số 74 lập ngày 09/01/2023 do Công an quận Hai Bà Trưng cung cấp. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Nguyễn Mạnh T1, sinh năm 1992; HKTT và nơi ở: 23 ngõ 124 Đ, phường T, quận E, Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.
2. Anh Nguyễn Đức H, sinh năm 1993; HKTT: Khu T, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; Nơi ở: 70/192 L, phường K, quận T, Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.
Người làm chứng:
1. Chị Nguyễn Hằng L, sinh năm 1988; HKTT: 39 B, phường C, quận H, Hà Nội; Nơi ở: Số 29 ngách 2 ngõ G, phường T, quận E, Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.
2. Chị Nguyễn Thùy L1, sinh năm 1994; HKTT: Số 8 ngách 272/45 T (50 tổ 5) phường T, quận E, Hà Nội; Nơi ở: Số 2 ngách 8 ngõ Q, phường T, quận E, Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.
3. Anh Nguyễn Mạnh T1, sinh năm 1992; HKTT và nơi ở: 23 ngõ 124 Đ, phường T, quận E, Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.
4. Anh Nguyễn Đức H, sinh năm 1993; HKTT: Khu T, phường Đ, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; Nơi ở: Số 70/192 L, phường K, quận T, Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.
5. Anh Lê Trần H1, sinh năm 2005; HKTT: Đội 6 S, huyện N, Ninh Bình. Nơi ở: 308 Đ, phường Đ, quận H, Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ ngày 23/7/2022, Trương Quý T đang ở nhà cùng bạn gái là chị Nguyễn Thùy L1 (sinh năm 1994; Trú tại: Số 2 ngách 8 ngõ Q, phường T, quận E, Hà Nội) thì nhận được điện thoại của Nguyễn Văn C rủ đến ăn uống tại phố 8/3, phường Quỳnh Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Khi đến nơi, T thấy C đang ngồi ăn uống cùng anh Nguyễn Mạnh T1 (sinh năm 1992; Trú tại: 23 ngõ 124 Đ, phường T, quận E, Hà Nội), anh Nguyễn Đức H (sinh năm 1993; Trú tại: phường Đ, thị xã Đ, Quảng Ninh) và một số người bạn (chưa xác định lai lịch) vào ăn uống cùng. Sau đó, do có việc nên T đi về trước. Do không đồng ý việc T đi uống rượu với C, chị L1 gọi Trần Hải V kể sự việc và hỏi số điện thoại của C để gọi T về. V cho chị L1 số điện thoại rồi V gọi điện thoại cho C trách việc rủ T đi uống rượu thì C chửi lại V. V và C chửi nhau rồi cả hai hẹn ra ngã ba Võ Thị Sáu - Trần Khát Chân, phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội để giải quyết mâu thuẫn. Tiếp đó, C và T gọi điện thoại chửi nhau rồi hẹn nhau đến ngã ba Võ Thị Sáu - Trần Khát Chân để giải quyết việc mâu thuẫn.
Khoảng 23 giờ 53 phút cùng ngày, C ra ngã ba Võ Thị Sáu- Trần Khát Chân để gặp T. Vài phút sau, T cùng chị L1 đến nơi, T và C lao vào dùng tay không đấm vào mặt của nhau, vừa đánh vừa chửi nhau rồi dùng tay ôm ghì cổ nhau xuống. Ngay lúc này, V cùng bạn gái là chị Nguyễn Hằng L đến nơi. V đi tới kéo C rồi vòng tay phải ghì cổ C ngửa ra phía sau, khống chế C để T lao vào đánh. Thấy V ghì cổ C, T lao tới dùng 2 tay đấm L1 tiếp khoảng 4-5 cái vào mặt C. Chị L đưa ví và điện thoại cho L1 cầm hộ rồi vào can ngăn. Tiếp đó, anh T1 và anh H đi đến can ngăn thì T và C dừng lại. T ngồi xuống vỉa hè, C đi tới dùng chân phải đá một cái trúng mặt của T rồi bỏ chạy về hướng Trần Khát Chân- Lạc Nghiệp. Bị C đánh, T chạy theo đuổi đánh lại C, khi đuổi được khoảng 5m thì có một nhóm khoảng 04 nam thanh niên (chưa xác định lai lịch) đi xe ô tô (không rõ biển kiểm soát) đến khu vực ngã ba Võ Thị Sáu- Trần Khát Chân xông vào dùng dao chém nhiều cái trúng vào phần đầu, người, chân, tay của C. Thấy C bị chém, anh T1 chạy vào can ngăn cũng bị nhóm thanh niên này chém vào vai, thái dương, chân, tay. Sau khi chém xong, nhóm thanh niên lên xe ô tô bỏ đi. Anh H đã đưa anh T1 và C đi cấp cứu tại bệnh viện còn T, V cùng chị L1, L lên xe máy bỏ về.
Đối với thương tích của Nguyễn Văn C, Bản kết luận giám định pháp y thương tích số 1137/ TTPY ngày 19/8/2022 của Trung tâm pháp y Hà Nội kết luận:
1. Vết thương vùng đỉnh chẩm trái: 01% 2. Vết sây sát da môi trên: 1,5%.
3. Vết thương, vết mổ vùng mặt sau cẳng tay trái: 03%.
4. Vết thương vùng ngang thắt lưng: 03%.
5. Vết thương mặt trong gối trái: 03 6. Vết thương mặt trước 1/3 trên cẳng chân phải: 02%.
7. Vết thương vùng trên mông phải: 01% 8. Gây 1/3 giữa xương trụ trái: 06%.
9. Hiện chưa đánh giá được hết mức độ di chứng và biến chứng của các tổn thương đứt gân cơ. Đề nghị giám định bổ sung sau khi điều trị ổn định ra viện.
10. Cơ chế hình thành thương tích: Do vật tày có cạnh và vật có cạnh gây nên.
Tỷ lệ tổn hại sức khỏe: 19% (Mười chín phần trăm). Tính theo phương pháp cộng lùi.
Cơ quan cảnh sát điều tra công an quận Hai Bà Trưng có quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 10/TTPY ngày 19/09/2022 gửi Trung tâm pháp y Hà Nội đề nghị giám định bổ sung tỷ lệ thương tích của các tổn thương đứt gân cơ đối với Nguyễn Văn C. Tuy nhiên, với lý do vết thương đã lành, hiện sinh hoạt bình thường nên C từ chối giám định thương tích bổ sung.
Đối với thương tích của anh Nguyễn Mạnh T1: 01 vết thương chày da tại cổ tay phải kích thước 0,5x5cm; 01 vết thương bả vai trái kích thước 0,5x2cm sắc gọn; 01 vết thương thái dương trên tại trái kích thước 3x1cm; 01 vết thương gỗ má trái kích thước 0,5x1cm; 01 vết thương căng chân phải mặt trước kích thước 01x01cm; các cơ quan bộ phận khác không phát hiện gì đặc biệt. Quá trình điều tra, anh T1 xác nhận do thấy đánh nhau nên anh T1 lao vào can ngăn thì bị nhóm nam thanh niên chém trúng người gây thương tích. Tuy nhiên, anh T1 từ chối giám định thương tích.
Ngày 05/01/2023, Đảng ủy- UBND- MTTQ phường Thanh Nhàn có công văn số 199 đề ngày 29/11/2022 cung cấp như sau: “Vụ việc trên xảy ra vào ban đêm, các đối tượng đuổi đánh nhau tại khu vực ngã ba Võ Thị Sáu- Trần Khát Chân, phường Thanh Nhàn, Hai Bà Trưng, Hà Nội gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, gây tâm lý hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân phường Thanh Nhàn. Để đảm bảo tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn, trấn an dư luận. Đảng ủy, Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc phường Thanh Nhàn kính đề nghị Cơ quan CSĐT- CAQ Hai Bà Trưng xử lý đối tượng về hành vi Gây rối trật tự công cộng, đảm bảo đúng quy định của pháp luật”.
Tại Kết luận giám định số 6609 ngày 26/09/2022 của Phòng KTHS- CATP Hà Nội, kết luận: Dấu vết màu nâu đỏ thu trên nền vỉa hè cách cửa ra vào số 373 Trần Khát Chân là máu người, có kiểu gen trùng với kiểu gen của Nguyễn Văn C; dấu vết màu nâu đỏ thu trên nền đường cách trụ tường bên phải từ ngoài vào cửa số nhà 375 Trần Khát Chân là máu người, có kiểu gen trùng với kiểu gen của Nguyễn Văn C.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hai Bà Trưng đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 1044 ngày 11/11/2022 gửi Viện khoa học hình sự- Bộ Công an giám định 03 video clip thu giữ được có L1 quan đến vụ việc. Kết quả, ngày 01/02/2023 Cơ quan CSĐT- CAQ Hai Bà Trưng nhận được kết luận giám định số 7777/KL-KTHS ngày 2/12/2022 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận: Không xác định được nội dung hình ảnh, âm thanh trong các file video gửi giám định có bị cắt ghép, C sửa hay không (do hình ảnh được ghi lại nội dung từ màn hình của thiết bị).
Tại bản cáo trạng số 82/CT/VKS-HS ngày 24/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, các bị cáo Trần Hải V, Trương Qúy T, Nguyễn Văn C bị truy tố về tội Gây rối trật tự công cộng theo khoản 1 điều 318 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, Trần Hải V, Trương Qúy T, Nguyễn Văn C giữ nguyên lời khai như đã khai tại cơ quan điều tra, thừa nhận nội dung, tội danh mà Viện kiểm sát truy tố các bị cáo là đúng. Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình và đề nghị Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng sau khi xem xét đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 318, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trần Hải V từ 06- 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án;
Áp dụng khoản 1 Điều 318, điểm s, i khoản 1 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trương Quý T từ 09- 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách 18- 24 tháng kể từ ngày tuyên án, giao bị cáo T cho chính quyền Ủy ban nhân dân dân phường Thanh Nhàn quản lý giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.
Áp dụng khoản 1 Điều 318, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C từ 09- 12 tháng tù.
Tại lời nói sau cùng, Trần Hải V, Trương Qúy T, Nguyễn Văn C đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình, tỏ ra ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Công an quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản thu giữ tài liệu đồ vật và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Do có mâu thuẫn với nhau từ trước, khoảng đêm ngày 23 rạng sáng 24/7/2022, Trần Hải V, Trương Quý T và Nguyễn Văn C hẹn nhau tại ngã ba Võ Thị Sáu- Trần Khát Chân, phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội để giải quyết mâu thuẫn. Tại đây, T và C chửi bới và lao vào đánh nhau bằng chân tay không, V ghì cổ C để T lao vào đấm vào mặt C. Sau đó C và T tiếp tục đuổi đánh nhau gây náo loạn ảnh hưởng đến an ninh trật tự an toàn xã hội trên địa bàn dân cư.
Hành vi của các bị cáo Trần Hải V, Trương Qúy T, Nguyễn Văn C đủ yếu tố cấu thành tội Gây rối trật tự công cộng, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Viện kiểm sát nhân dân quận Hai Bà Trưng truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là có căn cứ pháp lý.
[3] Hành vi của các bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội bởi đã trực tiếp xâm phạm trật tự công cộng, gây ảnh hưởng hoạt động bình thường của mọi người dân. Hậu quả gây náo loạn, làm mất trật tự trị an, ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn của khu dân cư, gây tâm lý hoang mang lo sợ cho người dân. Mặc dù nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì ý thức coi thường pháp luật mà các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo C có 01 tiền án chưa được xóa nên lần phạm tội này bị xác định là tái phạm thuộc tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Do đó cần thiết phải xử lý các bị cáo bằng pháp luật hình sự với mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng mới đủ sức cải tạo giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt và làm bài học răn đe người khác.
Tuy nhiên khi lượng hình có xem xét tại cơ quan điều tra và tại phiên toà, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo Trần Hải V có bố đẻ là ông Trần Minh B là thương binh loại A, là người có công với cách mạng. Bị cáoTrương Quý T là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Vì vậy xem xét áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Trần Hải V; áp dụng điểm s, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Trương Quý T; áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn C để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.
Xét thấy bị cáo Trương Quý T có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân tốt nên xem xét áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự cho bị cáo T được cải tạo ngoài xã hội và giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi cư trú giám sát giáo dục trong thời gian thử thách cũng đủ giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt.
[4] Đối với nhóm thanh niên dùng dao gây thương tích cho C và anh T1, quá trình điều tra các bị cáo khai không biết nhân thân lai lịch của những đối tượng này. Ngày 28/3/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra công an quận Hai Bà Trưng đã ra quyết định tách vụ án hình sự Cố ý gây thương tích để tiếp tục điều tra, xử lý sau là có căn cứ.
[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.Các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Trần Hải V, Trương Quý T và Nguyễn Văn C phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.
2. Áp dụng khoản 1 Điều; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Trần Hải V 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án;
Áp dụng khoản 1 Điều 318; điểm s, i khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Trương Quý T 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách 18 tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Trương Quý T cho Ủy ban nhân dân phường Thanh Nhàn, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự;
Áp dụng khoản 1 Điều 318; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Văn C 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án;
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:
Bị cáo Trần Hải V, Trương Quý T và Nguyễn Văn C mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án đối với những phần liên quan đến quyền lợi nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Bản án 177/2023/HS-ST về tội gây rối trật tự công cộng
Số hiệu: | 177/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/08/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về