Bản án 176/2019/HNGĐ-ST ngày 23/04/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH PHÚ, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 176/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/04/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 23 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 55/2018/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp “ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 519/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị O, sinh năm 1987. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

 ĐKTT: 49/1 ấp TA, xã TT, huyện P, tỉnh Bến Tre.

Chỗ ở hiện nay: 155 đường B, phường T, quận B, thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Anh Võ Hoài V, sinh năm 1983. Vắng mặt.

Địa chỉ: 49/1 ấp TA, xã TT, huyện P, tỉnh Bến Tre.

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, đơn yêu cầu xét xử vắng mặt và trong quá trình tố tụng nguyên đơn Nguyễn Thị O trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Võ Hoài V kết hôn tự nguyện vào năm 2011, đến năm 2013 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TT, được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 14/10/2013. Nguyên nhân chị yêu cầu ly hôn với anh V là do chị và anh V sống chung có nhiều thuẫn, cự cãi nên chị và anh V không còn sống chung từ tháng 2/2018 cho đến nay. Trong thời gian vợ chồng sống ly thân anh V và chị không gặp gỡ cũng không tìm cách hòa giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do hôn nhân không hạnh phúc, chị và anh V không thể tiếp tục sống chung nên chị yêu cầu được ly hôn với anh V. Khi ly hôn chị không yêu cầu anh V cấp dưỡng cho chị.

Về nuôi con chung: chị và anh V có một con chung là Võ Thị Tuyết B, sinh ngày 22/5/2011 đang sống chung với anh V, được anh V chăm sóc tốt, cháu được đi học. Khi ly hôn chị đồng ý giao con chung cho anh V trực tiếp nuôi dưỡng và cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con chung tròn 18 tuổi, cấp dưỡng lần đầu khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật.

Về chia tài sản: chị và anh V không có tài sản chung, nợ chung nên chị không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn Võ Hoài V đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải cùng các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp; các tài liệu, chứng cứ do tòa án thu thập nhưng không có văn bản ý kiến gửi Tòa án cũng không có yêu cầu phản tố.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký trong thời gian chuẩn bị xét xử: Trong thời gian chuẩn bị xét xử Thẩm phán, Thư ký thực hiện đúng với quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử tại phiên tòa: Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án.

Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng:

Nguyên đơn Nguyễn Thị O thực hiện quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn Võ Hoài V chưa thực hiện quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự Về nội dung:

Về hôn nhân: Hôn nhân của chị O và anh V là hôn nhân hợp pháp. Do chị O và anh V sống chung có nhiều mâu thuẫn, đã có thời gian dài sống ly thân nhưng không hàn gắn được tình cảm nên căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị O, cho chị O ly hôn với anh V. Do chị O, anh V không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn nên không xem xét.

Về nuôi con chung: chị O và anh V có một con chung là Võ Thị Tuyết B, sinh ngày 22/5/2011 đang sống chung với anh V, được anh V chăm sóc tốt, cháu được đi học, chị O đồng ý giao con chung cho anh V trực tiếp nuôi dưỡng và cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con chung tròn 18 tuổi, cấp dưỡng lần đầu khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Xét thấy, đây là sự tự nguyện của chị O nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận.

Về chia tài sản: Chị O, anh V không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: theo đơn khởi kiện của nguyên đơn Nguyễn Thị O thì đây là tranh chấp “ly hôn, nuôi con” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án; bị đơn Võ Hoài V có nơi cư trú tại 49/1 ấp TA, xã TT, huyện P, tỉnh Bến Tre theo điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện P.

[3] Về tố tụng: Nguyên đơn Nguyễn Thị O có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nên Hội đồng chấp nhận yêu cầu xét xử vắng mặt theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn Võ Hoài V đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án quyết định xét xử vắng mặt đối với anh Võ Hoài V theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Về hôn nhân: chị O và anh V kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã TT cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 14/10/2013 nên hôn nhân của chị O và anh V là hôn nhân hợp pháp. Sau một thời gian chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, bất đồng quan điểm dẫn tới việc vợ chồng không tiếp tục sống chung, mặc dù đã được gia đình hòa giải nhưng tình cảm vợ chồng không hàn gắn được. Chị O xác định hôn nhân không còn khả năng hàn gắn nên yêu cầu ly hôn với anh V. Anh V biết rõ việc chị O có đơn xin ly hôn với anh và đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý; thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; quyết định đưa vụ án ra xét xử và Giấy triệu của Tòa án nhiều lần đến tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Qua xác minh tình trạng hôn nhân của chị O và anh V thì hôn nhân giữa anh V và chị O có mâu thuẫn dù đã được gia đình hòa giải nhưng không hòa giải được. Từ đó có căn cứ kết luận tình trạng hôn nhân giữa chị O và anh V đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị O có yêu cầu ly hôn với anh V là có căn cứ phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình. Vì vậy, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị O, cho chị O ly hôn với anh V. Do chị O, anh V không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn nên không xem xét.

[5] Về nuôi con chung: chị O và anh V có một con chung là Võ Thị Tuyết B, sinh ngày 22/5/2011, con chung đang sống với anh V vẫn được đi học và chăm sóc tốt, con chung có nguyện vọng sống với anh V, chị O đồng ý giao con chung cho anh V trực tiếp nuôi dưỡng nên giao con chung cho anh V trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Chị O tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con chung tròn 18 tuổi, cấp dưỡng lần đầu khi bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. Xét thấy sự tự nguyện của chị O phù hợp với Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Chị O có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không được ai cản trở. Chị O, anh V có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

[6] Về chia tài sản: chị O, anh V không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[7] Về án phí: Chị O phải chịu án phí không có giá ngạch đối với yêu cầu ly hôn và án phí cấp dưỡng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 17 Luật phí và lệ phí, Điều 26, 27, Tiểu mục 1.1 Mục 1 phần II (Danh mục án phí) Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30-12- 2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị O. Cho chị Nguyễn Thị O ly hôn với anh Võ Hoài V. Chị O và anh V không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn.

2. Về nuôi con chung: anh V được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Võ Thị Tuyết B, sinh ngày 22/5/2011 và chị O cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000 đồng cho đến khi con chung tròn 18 tuổi, cấp dưỡng lần đầu khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Chị O có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không được ai cản trở. Chị O, anh V có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về chia tài sản: chị O, anh V không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

4. Về án phí: chị O phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm ly hôn, được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị O đã nộp theo Biên lai số 0021551 ngày 12-12-2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện P.

Về án phí cấp dưỡng: chị O phải chịu 300.000 đồng.

5. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

207
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 176/2019/HNGĐ-ST ngày 23/04/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:176/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;