Bản án 174/2021/HNGĐ-ST ngày 30/09/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 174/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON 

Ngày 30 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử công khai vụ án thụ lý số 99/2021/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2021 về việc ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 198/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 256/2021/QĐST-HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Bùi Duy Đ; địa chỉ: Tổ dân phố Tân H, phường Tân Th, quận Dương K, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị H; địa chỉ nơi đăng ký thường trú: Tổ dân phố Tân H, phường Tân Th, quận Dương K, thành phố Hải Phòng; địa chỉ nơi tạm trú: Đài Loan; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trình bày và yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh

Bùi Duy Đ: Anh Đ và chị Nguyễn Thị H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Thành, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng vào ngày 23/9/2003 (nay là phường Tân Thành, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng). Sau khi kết hôn, anh và chị H sinh sống với nhau hạnh phúc, thời gian gần đây vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do không tìm được tiếng nói chung. Đến đầu tháng 10/2020 chị H sang Đài Loan để làm việc và đến nay chưa về. Thời gian đầu vợ chồng còn liên lạc với nhau nhưng do khoảng cách địa lý nên tình cảm vợ chồng phai nhạt dần và không còn liên lạc với nhau nữa. Anh Đ chỉ biết chị H lao động tại Đài Loan, còn không biết địa chỉ cụ thể. Địa chỉ cuối cùng chị H ở Việt Nam trước khi đi sang Đài Loan là: Tổ dân phố Tân Hợp, phường Tân Thành, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng. Nay anh nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh đề nghị Tòa án cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Thị H.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung: Bùi Trà M, sinh ngày 20/6/2008; Bùi Hương L, sinh ngày 24/3/2010 và Bùi Ngọc Nh, sinh ngày 09/3/2019. Khi ly hôn, anh Đ đề nghị Tòa án giao cả 03 con cho anh được trực tiếp nuôi vì hiện nay các con đang ở cùng với anh. Về cấp dưỡng nuôi con anh không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh Đ không đề nghị Tòa án giải quyết.

Trình bày và đề nghị của bị đơn chị Nguyễn Thị H: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã thông báo cho gia đình chị H cung cấp địa chỉ của chị ở Đài Loan và yêu cầu gia đình chị cho biết kết quả đã thông báo cho chị H biết để gửi lời khai và cung cấp tài liệu, chứng cứ về Tòa án. Tuy nhiên, gia đình chị H vẫn không thực hiện yêu cầu trên của Tòa án. Tòa án đã ghi lời khai của em trai chị H, thể hiện: Chị Nguyễn Thị H vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình qua mạng internet nhưng gia đình không biết địa chỉ cụ thể của chị ở Đài Loan. Chị H đã được gia đình thông báo về việc anh Đ có đơn ly hôn với chị, đồng ý với quan điểm của anh Đ. Quan điểm của gia đình bị đơn thể hiện mâu thuẫn vợ chồng chị H và anh Đ đã thực sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn là chị Nguyễn Thị H vắng mặt tại phiên tòa không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Anh Bùi Duy Đ và chị Nguyễn Thị H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Thành, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng vào ngày 23/9/2003 (nay là phường Tân Thành, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng). Tuy nhiên, xét thấy mâu thuẫn vợ chồng anh chị đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Bùi Duy Đ.

Về con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử giao 03 con chung là cháu Bùi Trà M, sinh ngày 20/6/2008; cháu Bùi Hương L, sinh ngày 24/3/2010 và cháu Bùi Ngọc Nh, sinh ngày 09/3/2019 cho anh Đ trực tiếp nuôi dưỡng và không xem xét yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Anh Bùi Duy Đ không đề nghị Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp, thẩm quyền: Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn, nuôi con. Bị đơn chị Nguyễn Thị H hiện đang ở Đài Loan, nguyên đơn là anh Bùi Duy Đ có nơi cư trú tại Hải Phòng, theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa lần thứ hai, anh Bùi Duy Đ vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Chị Nguyễn Thị H vắng mặt mặc dù đã được tống đạt, thông báo hợp lệ. Căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Anh Bùi Duy Đ và chị Nguyễn Thị H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Thành, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng vào ngày 23/9/2003 (nay là phường Tân Thành, quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng), là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, thời gian đầu vợ chồng H thuận hạnh phúc, nhưng sau đó chị Nguyễn Thị H sang Đài Loan làm việc từ đó đến nay vợ chồng xa cách và không còn quan tâm đến nhau nữa, mặc dù đã được hai bên gia đình H giải nhưng không thành. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên xử cho anh Bùi Văn Đ và chị Nguyễn Thị H ly hôn là phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình.

[4] Về con chung: Anh Bùi Duy Đ và chị Nguyễn Thị H có 03 con chung Bùi Trà M, sinh ngày 20/6/2008; Bùi Hương L, sinh ngày 24/3/2010 và Bùi Ngọc Nh, sinh ngày 09/3/2019. Ly hôn, anh Đ có nguyện vọng được trực tiếp nuôi cả 03 con chung, đồng thời các con cũng có nguyện vọng được sinh sống cùng bố nên xét thấy nguyện vọng của anh Đ là chính đáng, Hội đồng xét xử chấp nhận giao 03 con chung cho anh Đ nuôi. Về cấp dưỡng nuôi con chung, anh Đ không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung: Anh Bùi Duy Đ không đề nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Bùi Duy Đ là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Anh Bùi Duy Đ và chị Nguyễn Thị H được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 2, khoản 4 Điều 207; khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 266; Điều 273; điểm d khoản 1 Điều 469; khoản 2 Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82; Điều 83; Điều 127 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Bùi Duy Đ.

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Bùi Duy Đ được ly hôn chị Nguyễn Thị H.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Bùi Trà M, sinh ngày 20/6/2008; cháu Bùi Hương L, sinh ngày 24/3/2010 và cháu Bùi Ngọc Nh, sinh ngày 09/3/2019 cho anh Bùi Duy Đ trực tiếp nuôi. Việc nuôi con của anh Đ được thực hiện cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không có yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

3. Về tài sản chung: Không có yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Bùi Duy Đ phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm; nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai ký hiệu: AA/2016 số 0019857 ngày 01 tháng 7 năm 2021 của Cục Thi hành án Dân sự thành phố Hải Phòng; anh Bùi Duy Đ đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Anh Bùi Duy Đ vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ. Chị Nguyễn Thị H vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp Bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 174/2021/HNGĐ-ST ngày 30/09/2021 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:174/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;