Bản án 153/2019/HNGĐ-ST ngày 15/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 153/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 15 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình thụ lý số: 903/2019/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 9 năm 2019 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 196/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Quốc T1, sinh năm 1982; thường trú: Số 33A/26, khu phố Đ 4, phường B, thị xã A, tỉnh D. Có mặt.

- Bị đơn: Chị Lê Thị Mỹ T2, sinh năm 1982; thường trú: Số 33A/26, khu phố Đ 4, phường B, thị xã A, tỉnh D. Có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Ngô N – Luật sư Văn phòng luật sư N, đoàn luật sư tỉnh Bình Dương. Có mặt.

- Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1949; thường trú: Số 33A/26, khu phố Đ 4, phường B, thị xã A, tỉnh D. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 03/9/2019, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn anh Nguyễn Quốc T1 trình bày:

+ Về quan hệ hôn nhân: Anh T1 và chị T2 sau thời gian tự nguyện tìm hiểu nhau thì tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường B, thị xã A, tỉnh D theo giấy chứng nhận kết hôn số 122/07, quyển số 05 ngày 31/12/2007.

Sau khi kết hôn vợ chồng sinh sống cùng mẹ anh T1 tại: Số 33A/26, khu phố Đ 4, phường B, thị xã A, tỉnh D sau đó chuyển ra ngoài sống riêng được khoảng 02 năm thì về sống với mẹ anh T1 cho đến nay. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến giữa năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn ban đầu là vấn đề tiền bạc, cụ thể anh T1 đi làm về tiền lương đưa cho chị T2 giữ nhưng khi có việc cần chi tiêu trong gia đình chị T2 không chủ động lo mà đợi anh T1 nhắc và yêu cầu thì mới chịu đưa, anh T1 cảm thấy làm việc gì liên quan đến tiền thì chị T2 khó khăn, cản trở từ đó gây ức chế cho anh. Khoảng 03 năm nay chị T2 trả lại thẻ ATM cho anh T1 thì mọi chuyện lớn bé trong gia đình do một mình anh T1 gánh vác. Trong cuộc sống hàng ngày vợ chồng cũng xảy ra hục hặc chuyện này chuyện kia, làm việc gì cũng không vui vẻ, thoải mái. Đối với việc dạy bảo con thì vợ chồng hoàn toàn trái ngược nhau, anh T1 chủ động khuyên bảo, nói nhỏ nhẹ với con nhưng chị T2 mỗi khi bực tức thì hay đánh con, anh T1 có nhắc nhở nhưng chị T2 nói “con tôi tôi dạy”. Ngoài ra, hai vợ chồng làm chung công ty, anh T1 làm quản lý, chị T2 làm công nhân, công việc hàng ngày chị T2 cũng hay gây gỗ, cãi vã với đồng nghiệp làm anh T1 bị lãnh đạo kêu lên nhắc nhở. Đối với quan hệ mẹ chồng nàng dâu cũng không yên ấm, những khi chị T2 đánh con thì mẹ anh T1 không vui, mua đồ ăn về cho cháu thì chị T2 nói món ăn không hợp không không cho con ăn nói từ đó gây cãi vã, bằng mặt chứ không bằng lòng. Anh T1 đã chủ động nói chuyện với chị T2 để cải thiện cuộc sống gia đình nhưng chị T2 không chịu thay đổi. Mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên anh T1 đã chủ động ly thân được khoảng hơn 02 năm nay, tuy sống chung nhà nhưng việc ai nấy làm, không còn quan tâm chăm sóc nhau nên anh T1 yêu cầu Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn.

+ Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Lê V, sinh ngày 31/12/2008 và Nguyễn Quốc T3, sinh ngày 03/3/2013. Hiện nay các con đang sống cùng vợ chồng. Cháu Nguyễn Quốc T3 còn nhỏ lại bị bệnh tự kỉ và đang học lớp 1, ngoài học ở trường anh T1 còn cho cháu học thêm trên Thành phố Hồ Chí Minh lớp dành cho trẻ tự kỷ. Anh T1 làm quản lý công ty, thu nhập hàng tháng khoảng 13.000.000 đồng. Khi ly hôn anh T1 yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung và không yêu cầu chị T2 có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, tuy nhiên nếu Tòa án không cho nuôi hai cháu thì mong muốn được nuôi cháu T3 để tránh làm thay đổi, xáo trộn ảnh hưởng đến việc chữa bệnh của cháu.

+ Về tài sản chung và nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại biên bản lấy lời khai ngày 04/10/2019, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn chị Lê Thị Mỹ T2 trình bày:

Thống nhất lời trình bày của nguyên đơn về thời gian kết hôn, về điều kiện kết hôn, về thời gian chung sống. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 10 năm thì đến đầu năm 2017 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị T2 phát hiện anh Thịnh có quen biết với người phụ nữ khác. Cụ thể mỗi lần có điện thoại anh T1 nghe lén lút, chị T2 có đọc được tin nhắn và hình ảnh người phụ nữ đó gửi vào số điện thoại của anh T1, về sau anh T1 cài mật khẩu và không cho chị đụng đến điện thoại nữa. Chị T2 gặng hỏi thì anh T1 chối bỏ rồi từ đó sinh ra bực bội, muốn làm gì thì làm, đi đâu thì đi và hay gắt gỏng. Cũng từ đó anh T1 sống khép kín không trao đổi hay tâm sự gì, chị T2 nấu cơm cũng không chịu ăn mà thường xuyên đi tới 23 giờ thậm chí đi qua đêm không về. Chị T2 thân một mình lo cho 2 con nên không có thời gian kiểm tra giám sát xem anh đi đâu mà chỉ khuyên nhủ nhưng không được nên cũng mặc kệ anh muốn làm gì thì làm. Về việc nuôi dạy con chung thì chị T2 cũng dành thời gian chỉ bảo cho con, nhiều khi cháu không nghe lời thì chị có đánh cháu để răn đe chứ không ghét bỏ gì cháu. Về quan hệ với mẹ chồng chị T2 thừa nhận là không tốt do có việc gì mẹ chồng không trao đổi mà đi ra ngoài nói với người khác nên chị cự lại và cùng chỉ có 01 lần, thực tế quan hệ với mẹ chồng không căng thẳng như anh T1 nói. Hiện nay tuy sống chung nhà nhưng vợ chồng đã ly thân về mặt tình cảm được hơn 1 năm nay. Vợ chồng chỉ còn việc chung với nhau là chăm sóc, đưa đón con đi học còn những việc khác thì tự ai nấy lo, việc ai nấy làm và không còn quan tâm chăm sóc nhau. Chị T1 xác định vẫn còn tình cảm với anh T1 nhưng không có phương án nào hàn gắn tình cảm vợ chồng, vì thương con, không muốn các con sống cảnh có cha thiếu mẹ nên chị không đồng ý ly hôn.

+ Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Lê V2, sinh ngày 31/12/2008 và Nguyễn Quốc T3, sinh ngày 03/3/2013. Hiện nay việc đưa đón, chăm sóc con là do 02 vợ chồng cùng thực hiện. Chị làm công nhân công ty TNHH sản xuất hàng da Latek tại khu chế xuất Linh Trung, thu nhập hàng tháng khoảng 6.500.000 đồng. Trường hợp Tòa án giải quyết cho vợ chồng ly hôn thì chị yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung và yêu cầu anh T1 có nghĩa vụ cấp dưỡng mỗi con 2.500.000 đồng/tháng cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi. Chị yêu cầu được nuôi 02 con chung là vì chị chăm sóc các con sẽ tốt hơn anh T1, anh T1 thường xuyên đi về khuya nên việc chăm sóc con sẽ không được đảm bảo.

+ Về tài sản chung và nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại phiên tòa người làm chứng bà Nguyễn Thị L trình bày: Mâu thuẫn giữa hai vợ chồng xảy ra đã lâu mà không có cách nào hàn gắn được, cuộc sống vợ chồng ngột ngạt, không hạnh phúc, không còn quan tâm, chăm sóc nhau. Do đó đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Luật sư Ngô N bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Quá trình chung sống anh T1 và chị T2 đã có với nhau 02 con chung trong đó có 01 cháu mắc hội chứng tự kỷ nên cần có sự quan tâm, chăm sóc của cả bố và mẹ. Vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn nhưng là mâu thuẫn vặt, mới phát sinh từ năm 2017. Chị T2 vì nghi ngờ anh T1 có người phụ nữ khác nên trong hành xử không được khéo léo nên vợ chồng không có tiếng nói chung. Mâu thuẫn giữa hai vợ chồng không rõ nét, chưa đến mức trầm trọng, vợ chồng không có hành vi ngược đãi nhau và cũng chưa được cơ quan, tổ chức nào hòa giải. Như vậy căn cứ để giải quyết ly hôn theo hướng dẫn tại Nghị quyết 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là chưa rõ ràng. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh T1.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

+ Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự.

+ Về nội dung vụ án: Mâu thuẫn giữa anh T1 và chị T2 đã thực sự trầm trọng, chị T2 cũng thừa nhận vợ chồng đã sống ly thân từ khoảng 02 năm nay nên có căn cứ giải quyết cho vợ chồng ly hôn. Về con chung cần giao 02 con chung cho chị T2 trực tiếp nuôi dưỡng và anh T1 có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi mỗi con 2.500.000 đồng/tháng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa, Tòa án nhận định:

[1] Anh Nguyễn Quốc T1 khởi kiện chị Lê Thị Mỹ T2 yêu cầu được ly hôn nên đây là vụ án hôn nhân và gia đình tranh chấp ly hôn, nuôi con theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chị Lê Thị Mỹ T2 có nơi cư trú tại khu phố Đ4, phường B, thị xã A, tỉnh D nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Tại phiên tòa, bị đơn anh Nguyễn Quốc T1 đề nghị Tòa án triệu tập bà Nguyễn Thị L tham gia phiên tòa với tư cách người làm chứng vì bà L là người sống chung với anh T1 và chị L2, biết rõ mâu thuẫn của hai vợ chồng. Yêu cầu của anh T1 là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà L tham gia phiên tòa với tư cách người làm chứng.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Quốc T1 và chị Lê Thị Mỹ T2 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường B, thị xã A, tỉnh D theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 122/07, quyển số 05 ngày 31/12/2007 nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Anh T1 xác định vợ chồng chung sống hạnh phúc đến giữa năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng trong chuyện tiền bạc, không có tiếng nói chung trong việc nuôi dạy con cái và sinh hoạt trong gia đình. Anh T1 nhiều lần khuyên bảo nhưng chị T2 không thay đổi. Vợ chồng tuy không thường xuyên cãi vã nhau nhưng đã âm ỉ từ lâu. Hiện nay vợ chồng còn sống chung nhà nhưng thực tế đã ly thân về mặt tình cảm được hơn 02 năm. Chị T2 cho rằng vợ chồng có mâu thuẫn là do anh T1 có người phụ nữ khác nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh. Mặt khác chị T2 cũng thừa nhận vợ chồng cũng có bất đồng trong việc chăm sóc dạy bảo con chung và trong sinh hoạt cuộc sống hàng ngày với mẹ chồng, vợ chồng tuy còn sống chung nhưng việc ai nấy làm và không còn quan tâm chăm sóc nhau, đã ly thân về mặt tình cảm được hơn 01 năm nay. Hiện tại chị T2 cho rằng vẫn còn tình cảm với anh T1, thương các con nên chị T2 không đồng ý ly hôn. Xét thấy mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc. Để đạt được mục đích đó, vợ chồng phải chung thủy, thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho nhau phát triển về mọi mặt. Tuy nhiên, do mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T2 và anh T1 đã diễn ra trong thời gian dài, cả hai không có giải pháp nào để khắc phục và đều thừa nhận cuộc sống có nhiều bất đồng, đã ly thân về mặt tình cảm được một thời gian dài, không còn quan tâm, chăm sóc nhau, điều này phù hợp với lời khai của người làm chứng bà Nguyễn Thị L tại phiên tòa. Như vậy, chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã thật sự trầm trọng, cuộc sống vợ chồng không mang lại hạnh phúc cho nhau, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, anh T1 yêu cầu được ly hôn với chị T2 là có căn cứ, phù hợp với quy định tại các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Lê V, sinh ngày 31/12/2008 và Nguyễn Quốc T3, sinh ngày 03/3/2013. Khi giải quyết việc ly hôn cần xem xét đến sự phát triển của con chưa thành niên để quyết định việc giao con cho cha hoặc mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy cháu V là con gái, việc giáo dục, chăm sóc cháu phát triển cả về thể chất lẫn tâm sinh lý rất cần sự quan tâm, chăm sóc từ người mẹ. Chị T1 làm công nhân thu nhập ổn định. Mặt khác, tại bản tự khai cháu V có nguyện vọng được sống với chị T1. Cháu T3 là con trai, bản thân cháu là trẻ tự kỉ, hiện ngoài học ở trường cháu còn theo học lớp tự kỉ trên Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày cuối tuần và anh T2 là người hiện nay đang đưa đón. Anh T2 làm quản lý xưởng nên không phải tăng ca nhiều nên có thời gian chăm sóc con, mặt khác cháu T3 trước nay đều sống chung với bố mẹ và bà tại địa chỉ trên nên để cháu phát triển tốt cần phải ổn định về chỗ ở, tránh xáo trộn cuộc sống ảnh hưởng đến quá trình chữa bệnh của cháu. Do đó cần giao cháu V cho chị T2 trực tiếp nuôi dưỡng, cháu T3 cho anh T1 trực tiếp nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con là phù hợp với các Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình.

[5] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Từ nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận một phần đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Đối với ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn là chưa phù hợp nên không được chấp nhận.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Nguyễn Quốc T1 phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 và các Điều 229, 266, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Quốc T1 đối với chị Lê Thị Mỹ T2 về việc ly hôn, nuôi con.

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Quốc T1 được ly hôn với chị Lê Thị Mỹ T2 (Theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 122/07, quyển số 05 ngày 31/12/2007 do Ủy ban nhân dân phường B, thị xã A, tỉnh D cấp).

- Về con chung: Anh Nguyễn Quốc T1 có trách nhiệm giao con chung tên Nguyễn Lê V, sinh ngày 31/12/2008 cho chị Lê Thị Mỹ T2 trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; chị Lê Thị Mỹ T2 có trách nhiệm giao con chung tên Nguyễn Quốc T3, sinh ngày 03/3/2013 cho anh Nguyễn Quốc T1 trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Không ai có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Sau ly hôn, anh Nguyễn Quốc T1 và chị Lê Thị Mỹ T2 có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con chung, không ai có quyền cản trở anh, chị thực hiện quyền này. Vì quyền lợi hợp pháp của con, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Nguyễn Quốc T1 phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0029240 ngày 10/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

3. Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

233
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 153/2019/HNGĐ-ST ngày 15/11/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:153/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;